Hội nghị lý luận phê bình văn học Tam Đảo

14:38 09/06/2009
BẢO CHI                 (lược thuật)Từ chiều 13 đến chiều 15-8-2003, Hội nghị Lý luận – Phê bình văn học (LL-PBVH) toàn quốc do Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức đã diễn ra tại khu nghỉ mát Tam Đảo có độ cao 1.000 mét và nhiệt độ lý tưởng 23oc. Đây là hội nghị nhìn lại công tác LL-PBVH 28 năm qua kể từ ngày đất nước thống nhất và sau 54 năm Hội nghị tranh luận Văn nghệ tại Việt Bắc (1949). Gần 200 nhà LL-PB, nhà văn, nhà thơ, nhà báo và khách mời họp mặt ở đây đã làm nóng lên chút đỉnh không khí ôn hoà của xứ lạnh triền miên...

Trước khi triệu tập hội nghị này có nhà LL-PB đã tuyên bố “Sẽ không dự hội nghị nếu có Trần Mạnh Hảo”. Có lẽ vì thế mà Hội Nhà văn đã phải soạn thảo “Quy chế Hội nghị LL-PB Tam Đảo” phát cho tất cả đại biểu với nội dung chính như sau:

1. Hội nghị có Đoàn Chủ tịch và Ban thư ký. Đoàn Chủ tịch điều khiển hội nghị thảo luận, bàn bạc đúng những chủ đề và yêu cầu đã đặt ra. Ban thư ký giúp việc Đoàn Chủ tịch ghi chép biên bản hội nghị, tiếp nhận các tham luận và đăng ký phát biểu chuyển Đoàn Chủ tịch, lưu giữ các tham luận, để sau này in thành sách kỷ yếu hội nghị.

2. Các đại biểu phát biểu theo nội dung chương trình hội nghị và sự sắp xếp của Đoàn Chủ tịch. Thời gian dành cho mỗi tham luận không quá 15 phút.

3. Các phát biểu, tham luận nên tập trung vào 3 chủ đề đã nêu trong giấy mời (Nhìn lại chặng đường phát triển văn học giai đoạn 1975 – 2000: Thành tựu và hạn chế, những bài học kinh nghiệm – tình hình lý luận phê bình văn học hiện nay. Thực trạng ưu, khuyết điểm; nguyên nhân, giải pháp – Những vấn đề đặt ra cho sự phát triển văn học hiện nay. Nâng cao chất lượng sáng tác, vấn đề, nhân vật, trách nhiệm nhà văn, vai trò của LL-PBVH, vai trò của tổ chức Hội). Bảo đảm tính chất khoa học, trí tuệ, văn hoá của Hội nghị, nên tập trung lắng nghe ý kiến người khác, có thể có ý kiến trao đổi, nhưng không cắt ngang lúc người khác đang phát biểu; trên tinh thần đoàn kết, thực sự cầu thị, nghiêm túc, thẳng thắn, không sử dụng bài nói để đưa ra những thông tin thiếu căn cứ, không đả kích cá nhân”.

Từ chiều 13-8, gần 10 chiếc xe ca, xe con đã chở đại biểu tới Nhà nghỉ Công đoàn Tam Đảo, tay bắt mặt mừng. Những “cặp xung đột” cùng ở một nhà, cùng ăn một bàn, nói cười rôm rả. Các nhà văn từ miền Nam và miền Trung ra khá đông (dù vé máy bay không mềm mấy): Anh Đức, Lê Văn Thảo, Chim Trắng, Mai Quốc Liên, Trần Thanh Đạm, Phạm Quốc Ca, Phạm Quang Trung, Nguyễn Văn Hạnh, Trần Mạnh Hảo, Tô Nhuận Vỹ, Lâm Thị Mỹ Dạ, Thanh Thảo... Viện Văn học có cả chục người từ tân viện trưởng đến nguyên viện trưởng. Tạp chí Văn nghệ Quân đội có đến 6 người. Nhiều nhà văn ở Hà Nội và các tỉnh lân cận cũng đều có mặt. Nhà thơ kiêm “nhà hùng hồn” Trần Mạnh Hảo vừa xuống xe của ... báo Nhân dân, lập tức mở vali phát ngay hàng trăm tờ phôtô cỡ A4 và A3 những bài viết phê bình, và đơn kiện giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh và báo Ngày nay (in bài phỏng vấn N.Đ.M chỉ trích T.M.H), nhưng nơi gửi không phải là công an, viện kiểm soát hoặc toà án mà là Ban Tư tưởng Văn hoá Trung ương (!). Ngày hôm sau một vị khách không mời là Nguyễn Hoàng Đức từ Hà Nội lên cũng ôm một tập phôtô bài “bàn tròn” về triết luận nghệ thuật kiểu “hạ mục vô nhân” phân phát ở hành lang Hội nghị, rồi biến mất tăm. Nhà thơ Thanh Thảo sau khi nạp tham luận cho BTC liền đòi 200.000đ tiền “bồi đưỡng” và liền được chấp nhận. Cứ tưởng đấy là chiêu độc nhất vô nhị, hoá ra hơn 60 tham luận đều được bồi dưỡng với số tiền đó, dù được đọc hay không được đọc trong hội nghị.

Buổi khai mạc sáng 14.8, xuất hiện trên hàng ghế Đoàn Chủ tịch có Hữu Thỉnh, Hà Minh Đức, Trần Thanh Đạm, Anh Đức và Lê Quang Trang. Bàn thư ký có Lê Thành Nghị và Phạm Quang Trung (hai người này được gọi là “thư ký chuyên nghiệp” vì thấy trong Đại hội Nhà văn cũng giữ vị trí này). Bài đề dẫn của Tổng Thư ký Hội Nhà văn Hữu Thỉnh đọc rất hùng hồn nhận định LL-PB đã góp phần quan trọng trong tiến trình văn học nước nhà, đặc biệt là làm nổi bật tình hình văn học trong công cuộc đổi mới của Đảng và Nhà nước, nhưng vẫn còn những hạn chế chưa theo kịp bước đi của sáng tác vô cùng phong phú và sinh động. Ông cũng nhấn mạnh rằng, đây là cuộc gặp gỡ, trao đổi, tranh luận trên tinh thần dân chủ. Dù dàn máy âm thanh khá tốt, nhưng ông đọc đúng vào giờ mưa to nên ít ai nghe rõ. Suốt cả ngày 14, hơn 20 tham luận đã được trình bày tại hội nghị, đó là tham luận của Trần Thanh Đạm, Nguyễn Huy Bắc, Trần Đình Sử, Xuân Cang, Lê Quang Trang, Trần Mạnh Hảo, Nguyễn Trọng Tạo, Chu Xuân Sơn, Thanh Thảo, Lâm Tiến, Hồ Sĩ Vịnh, Trường Lưu, Nguyễn Văn Dân, Vũ Quần Phương, Phạm Tiến Duật, Anh Thơ, Hoàng Trinh v.v... Có nhiều ý kiến cho rằng, lý luận phê bình sau 1975 đã chấp nhận nhiều trường phái hiện đại thế giới từng vắng bóng tại Việt Nam, kể cả chủ nghĩa hiện thực không bờ bến mà trước đây đã bị phủ nhận; không khí cởi mở, khoan dung và đối thoại dân chủ được mở rộng (Trần Đình Sử). Nhà văn Xuân Cang lại đưa ra một nhận xét lạ: Không phải người đọc quay lưng với sách mà sách đang quay lưng với người đọc! Ông cũng cho rằng, các nhà phê bình không nên lấy tiêu chí là dạy dỗ người đọc mà nên đi cùng người đọc, vì người đọc hôm nay là Thượng đế. Nhà LL-PB Nguyễn Văn Hạnh băn khoăn: “LL-PB văn học cần đối thoại, tranh luận mới phát triển được. Tiếc thay ta vẫn chưa có được một không khí đối thoại, tranh luận bình thường, lành mạnh”. Một số ý kiến phê phán lối phê bình bốc thơm, bốc thối, câu khách làm người đọc mất tin vào phê bình. Nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo cho rằng, phê bình gần đây mang ý nghĩa thứ tư của chữ PHÊ là “dùng tay đánh vào mặt người khác”. Nhà thơ Trần Mạnh Hảo chỉ trích cuốn Về một hiện tượng phê bình của nhiều tác giả dày gần 600 trang đã “đánh” anh là vô văn hoá. Nhà phê bình Chu Xuân Sơn bắt bệnh “phê bình suy lương tâm” quen thói bé xé ra to, lập hiện trường giả, đánh tráo khái niệm, xiên xẹo la lối, qui chụp chính trị, gây nhiễu và tạo ra những giá trị rởm. Vấn đề phê bình chuyên nghiệp và nghiệp dư cũng được tranh luận và dễ thống nhất ở chỗ phê bình phải đạt tới tính khoa học của một chuyên ngành. Nói như nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo là, thời nào cũng cần tính chuyên nghiệp cao huống hồ là thời đại khoa học phát triển như ngày nay; anh Trần Mạnh Hảo (T.M.H) có hơi dỗi khi một số người bàn về tính chuyên nghiệp trong phê bình. Nhưng tính chuyên nghiệp – chuyên ngành là có thật. Dẫu có đá bóng suốt đời trên bãi sông Hồng vẫn không phải là cầu thủ chuyên nghiệp. Nhưng một số người cũng băn khoăn về tính thiếu hấp dẫn và thiếu thuyết phục của lối phê bình hàn lâm.

Vấn đề phê bình sách giáo khoa văn học là một điểm nóng. Không ai khẳng định là sách giáo khoa không có sai sót, nhưng sự phê bình sách giáo khoa văn học đôi lúc quá thái và dẫn đến sự xúc phạm cá nhân không đáng có. Thư ký văn học của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng xuất hiện trong hội nghị này với một tham luận “rất là nhà giáo”, cho rằng: Ngòi bút dạy người nhưng ngòi bút cũng có thể giết người. Ông hy vọng các nhà văn, nhà LL-PB sẽ tận tâm, tận tình với giáo dục hơn nữa.

Hội nghị dành trọn buổi sáng 15 cho các đại biểu phát biểu tự do. Người mở màn là giáo sư Hoàng Ngọc Hiến. Ông nói điều chưa ai nói, đó là “tư cách người bị phê bình”. Ông chia sẻ với thái độ điềm đạm và quyết liệt của đạo diễn Đặng Nhật Minh sau khi bị “đánh”oan về phim Thương nhớ đồng quê bởi ông cũng là người bị đánh nhiều lần từ trong nước và cả ngoài nước. Ông cũng chia sẻ với giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh khi có người cho là “tiểu khí”. Ông dẫn lời Biêlinxki nói rằng người vĩ đại cũng có lúc tiểu nhân, đê tiện, nhưng cái lớn là họ nhận ra điều đó; nhưng ông sợ nhất là kẻ tiểu nhân, trâng tráo, đê tiện mà suốt cả đời không biết mình là tiểu nhân, trâng tráo, đê tiện. Ý kiến của Hoàng Ngọc Hiến rất ngắn nhưng được hội nghị vỗ tay tán thưởng đến hai lần. Nhà thơ Nguyễn Hoàng Sơn nói về sự quan ngại cho lối phê bình ít học, ít đọc, nhưng vì anh dẫn chứng kể lể quá dài dòng làm nhiều người thất vọng hơn là trước khi anh xuất hiện. Nhà phê bình trẻ Nguyễn Thanh Sơn cho rằng phê bình ta thiếu giọng điệu, nói như viết, viết như nói; nhưng khi anh đưa thông tin “17% nội dung 83% cơ thể” thiếu thuyết phục thì bị hội nghị cười ồ. Nhà LL-PB Phạm Xuân Nguyên lo sợ lối phê bình thiếu học thuật, cảm tính hoặc lý luận vô lý luận, lại thiên về góc nhìn chính trị, đạo đức, qui chụp. Anh nói rằng: Năm nay tôi 20 tuổi Đảng, và tôi lo sợ LL-PB đang là một sân chơi thiếu luật, và không công bằng. Tại sao anh T.M.H được nói đi mà cuốn sách Về một hiện tượng phê bình nói lại, lại không được phát hành? Chúng ta luôn hô hào viết, hô hào đổi mới, nhưng sẽ đăng ở đâu?” Nhà văn Văn Chinh nói khá dài, nhưng thiếu mạch lạc nên không ai hiểu anh định nói gì; đến lúc quá giờ qui định, Chủ tịch đoàn rung chuông anh vẫn tuyên bố là “tôi còn một ý nữa”. Nhà LL-PB Nguyễn Hoà tự nhận là thuộc phái phê bình đao búa, chỉ trích lối viết phê bình quá cũ của một số “cây đa cây đề”. Và làm “đứng tim” cử tọa khi anh nói rằng: “Nếu một ngày báo còn in những bài LL-PB của Trần Thanh Đạm, Hồ Sĩ Vịnh, Trường Lưu, cha con tiến sĩ Đỗ Văn Khang thì không có phê bình. Nếu một ngày nhà văn Trịnh Đình Khôi còn làm nhà LL-PB thì tôi rất lo ngại cho văn học chúng ta. Nhà LL-PB Phan Trọng Thưởng (Viện trưởng Viện văn học) từ tốn nói “Anh T.M.H đã nhầm Viện Văn học với Hội Nhà văn, bởi Viện chuyên nghiên cứu có tính hàn lâm chứ không phải là một bộ phận của Hội Nhà văn; anh Vũ Quần Phương khen một người không có bằng tiến sĩ lại viết phê bình nhiều hơn những người có bằng cấp cao ở Viện, chỉ làm vừa lòng một người mà làm mếch lòng nhiều người; thực ra Viện có nhiều nhà nghiên cứu có học hàm, học vị mà chính họ cũng có nhiều công trình có giá trị. Viện cũng chưa bao giờ chủ trương phê bình chạy theo khoa học thuần tuý như có người đã hồ đồ nhận xét”. Nhà văn Bùi Đình Thi to khoẻ đứng trước micro bị cánh truyền hình chiếu đèn quay phim không chịu nổi đã “quát” truyền hình “Không được chiếu đèn khi tôi đang nói” làm hội nghị cười ồ. Ông phê phán việc “ém nhẹm” một số cuốn sách văn học xuất bản gần đây. Cuốn Thượng đế thì cười đã in trọn trên mấy số tạp chí Nhà văn rồi, mà NXB Hội Nhà văn in thành sách lại bị xếp kho, để giám đốc NXB thuỗn mặt vì số tiền in sách không “quay” được. Ông khẳng định nghệ thuật không vi phạm luật cấm thì cứ để phát hành cho nhân dân và thời gian thẩm định. Cách nói bỗ bã của Bùi Đình Thi làm cho hội nghị nóng lên. Sau tiếng vỗ tay dài, ông trở về ghế ngồi lại có vẻ thiếu tự tin, hỏi to: “Nói có được không?” và nghe có tiếng “Được rồi” lẫn tiếng cười vui vẻ... Việc nói lên sự thật ở hội nghị, có người cho rằng “sự thật mất lòng”, có người lại bảo là “thuốc đắng giã tật”. Nhưng điều đó đã chứng tỏ tính dân chủ của hội nghị này.

Tổng kết Hội nghị, nhà thơ Hữu Thỉnh kết luận: “Khiêm tốn mà nói, là Hội nghị đã thành công bước đầu”. Điều đó có nghĩa là nhiều vấn đề học thuật, đi vào chiều sâu của LL-PBVH ta còn phải tiếp tục. Việc ra một tờ báo dành riêng cho LL-PB là một bức xúc của cả giới LL-PB. Nếu có “sân chơi riêng”, chắc LL-PB sẽ rôm rả hơn, chuyên sâu hơn, và mới mẻ hơn.

Hà Nội, 8-2003
B.C
(176/10-03)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGUYỄN TRỌNG TẠO...Một câu ngạn ngữ Pháp nói rằng: “Khen đúng là bạn, chê đúng là thầy”. Câu ngạn ngữ này đúng trong mọi trường hợp, và riêng với văn học, Hoài Thanh còn vận thêm rằng: “Khen đúng là bạn của nhà văn, chê đúng là thầy của nhà văn”...

  • ĐỖ LAI THÚY                Văn là người                                  (Buffon)Cuốn sách thứ hai của phê bình văn học Việt Nam, sau Phê bình và cảo luận (1933) của Thiếu Sơn, thuộc về Trần Thanh Mại (1911 - 1965): Trông dòng sông Vị (1936). Và, mặc dù đứng thứ hai, nhưng cuốn sách lại mở đầu cho một phương pháp phê bình văn học mới: phê bình tiểu sử học.

  • ĐẶNG TIẾNThuật ngữ Thi Học dùng ở đây để biểu đạt những kiến thức, suy nghĩ về Thơ, qua nhiều dạng thức và trong quá trình của nó. Chữ Pháp là Poétique, hiểu theo nghĩa hẹp và cổ điển, áp dụng chủ yếu vào văn vần. Dùng theo nghĩa rộng và hiện đại, theo quan điểm của Valéry, được Jakobson phát triển về sau, từ Poétique được dịch là Thi Pháp, chỉ chức năng thẩm mỹ của ngôn từ, và nới rộng ra những hệ thống ký hiệu khác, là lý thuyết về tính nghệ thuật nói chung. Thi Học, giới hạn trong phạm vi thi ca, là một bộ phận nhỏ của Thi Pháp.

  • TRẦN CAO SƠNTriều Nguyễn tồn tại gần 150 năm, kể từ khi Nguyễn Ánh lên ngôi hoàng đế với niên hiệu Gia Long - năm1802, tạo dựng một đế chế tập quyền trên toàn bộ lãnh thổ mà trước đó chưa hề có. Trải qua một thế kỷ rưỡi tồn tại, vinh hoa và tủi nhục, Triều đại Nguyễn là một thực thể cấu thành trong lịch sử Đại Việt. Những cái do triều đình Nhà Nguyễn mang lại cũng rất có ý nghĩa, đó là chấm dứt cuộc nội chiến, tranh giành quyền lực, xương trắng máu đào liên miên mấy thế kỷ, kiến tạo bộ máy quản lý hành chính trung ương tập quyền thống nhất mà Quang Trung - Nguyễn Huệ đã dày công vun đắp gây dựng trước đó. Dân tộc đã phải trải qua những năm tháng bi hùng với nhiều điều nuối tiếc, đáng bàn đáng nói ngay ở chính hôm nay. Song lịch sử là lịch sử, đó là một hiện thực khách quan.

  • TRẦN HUYỀN SÂMNếu nghệ thuật là một sự ngạc nhiên thì chính tiểu thuyết Thập giá giữa rừng sâu là sự minh định rõ nhất cho điều này. Tôi bàng hoàng nhận ra rằng, luận thuyết: con người cao quý và có tình hơn động vật đã không hoàn toàn đúng như lâu nay chúng ta vẫn tin tưởng một cách hồn nhiên. Con người có nguy cơ sa xuống hàng thú vật, thậm chí không bằng thú vật, nếu không ý thức được giá trị đích thực của Con Người với cái tên viết hoa của nó. Phải chăng, đây chính là lời nói tối hậu với con người, về con người của tác phẩm này?

  • HOÀNG NGỌC HIẾN           ...Từ những nguồn khác nhau: đạo đức học, mỹ học, triết học xã hội-chính trị, triết học xã hội-văn hoá... cảm hứng triết luận trong nghiên cứu, phê bình văn học là nỗ lực vượt lên trên những thành kiến và định kiến hẹp hòi trong sinh hoạt cũng như trong học thuật. Những thành kiến, định kiến này có khi lại được xem như những điều hiển nhiên. Mà đã là “hiển nhiên” thì khỏi phải bàn. Đây cũng là một thói quen khá phổ biến trong nhân loại. Cảm hứng triết luận trong nghiên cứu, phê bình có khi bắt nguồn từ suy nghĩ về chính những điều “hiển nhiên” như vậy...

  • THÁI DOÃN HIỂUVào đời, Lưu Quang Vũ bắt đầu làm thơ, viết truyện, rồi dừng lại nơi kịch. Ở thể loại nào, tài năng của Vũ cũng in dấu ấn đậm đà làm cho bạn đọc cả nước đi từ ngạc nhiên đến sửng sốt. Thơ Lưu Quang Vũ một thời được lớp trẻ say sưa chép và thuộc. Kịch Lưu Quang Vũ một thời gần như thống trị sân khấu cả nước.

  • TRẦN THANH ĐẠMTrong lịch sử nước ta cũng như nhiều nước khác, thời cổ - trung đại cũng như thời cận - hiện đại, mỗi khi một quốc gia, dân tộc bị xâm lược và chinh phục bởi các thế lực bên ngoài thì trong nước bao giờ cũng phát sinh hai lực lượng: một lực lượng tìm cách kháng cự lại nạn ngoại xâm và một lực lượng khác đứng ra hợp tác với kẻ ngoại xâm.

  • ĐỖ LAI THUÝLTS: Trong số tháng 5-2003, Sông Hương đã dành một số trang để anh em văn nghệ sĩ Huế "tưởng niệm" nhà văn Nguyễn Đình Thi vừa qua đời. Song, đấy chỉ mới là việc nghĩa.Là một cây đại thụ của nền văn nghệ cách mạng Việt Nam, Nguyễn Đình Thi toả bóng trên nhiều lĩnh vực nghệ thuật. Bằng chứng qua các bài viết về ông sau đây, Sông Hương xin trân trọng dành thêm trang để giới thiệu sâu hơn, có hệ thống hơn về Nguyễn Đình Thi cùng bạn đọc.

  • ĐẶNG TIẾN…Nguyễn Đình Thi quê quán Hà Nội, nhưng sinh tại Luang Prabang, Lào, ngày 20/12/1924. Từ 1931 theo gia đình về nước, học tại Hải Phòng, Hà Nội. Năm 1941 tham gia Thanh Niên cưú quốc, 1943 tham gia Văn hóa cứu quốc, bị Pháp bắt nhiều lần. Năm 1945, tham dự Quốc Dân Đại hội Tân Trào, vào Ủy ban Giải phóng Dân tộc. Năm 1946, là đại biểu Quốc hội trẻ nhất, làm Ủy viên Thường trực Quốc hội, khóa I…

  • HỒ THẾ HÀ          Hai mươi lăm năm thơ Huế (1975 - 2000) là một chặng đường không dài, nhưng nó diễn ra trong một bối cảnh lịch sử - thi ca đầy phức tạp. Cuộc sống hàng ngày đặt ra cho thể loại những yêu cầu mới, mà thơ ca phải làm tròn sứ mệnh cao cả với tư cách là một hoạt động nhận thức nhạy bén nhất. Những khó khăn là chuyện đương nhiên, nhưng cũng phải thấy rằng bí quyết sinh tồn của chính thể loại cũng không chịu bó tay. Hơn nữa, đã đặt ra yêu cầu thì chính cuộc sống cũng đã chuẩn bị những tiền đề để thực hiện. Nếu không, mối quan hệ này bị phá vỡ.

  • JAMES REEVESGần như điều mà tôi hoặc bất kỳ nhà văn nào khác có thể nói về một bài thơ đều giống nhau khi nêu ra ấn tượng về điều gì đấy được in trên giấy. Tôi muốn nhấn mạnh rằng đây không phải là toàn bộ sự thật. Việc in trên giấy thực ra là một bài thơ gián tiếp. Sẽ dễ dàng thấy điều này nếu chúng ta đang nói về hội hoạ hoặc điêu khắc.

  • NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆP...Nguyễn Huy Thiệp không phải là người duy nhất đổi mới phương thức trần thuật. Trước ông đã có Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng... tích cực mở đường. Nhưng phải đến Nguyễn Huy Thiệp thì sự khai phóng về tư tưởng nghệ thuật mới được thể hiện một cách đậm nét. Tất cả được Nguyễn Huy Thiệp kiến tạo qua một trò chơi đầy tính bất ngờ. Giống như người nghệ sĩ ba lê tài năng, Nguyễn Huy Thiệp trình diễn một thế giới đa sắc trên đầu những đầu mũi ngón chân. Những ngón chân ấy bám trụ vào hiện thực một cách tinh diệu, xoay chuyển một cách nhịp nhàng với những vòng quay, những vũ điệu ngôn từ...

  • PHAN NGỌC THUTrong nền văn học Việt Nam thế kỷ XX, Xuân Diệu (1916-1985) là một trong những nhà thơ nổi tiếng nhất, đồng thời cũng là nhà phê bình văn học kiệt xuất. Từ những bài tranh luận văn học sôi nổi thời Thơ Mới (1932-1945) đến Tiếng thơ (1951), Những bước đường tư tưởng của tôi (1958); từ Phê bình giới thiệu thơ (1960) đến Trò chuyện với các bạn làm thơ trẻ (1961), Dao có mài mới sắc (1963), Lượng thông tin và những kỹ sư tâm hồn ấy (1978), Các nhà thơ cổ điển Việt Nam, tập I (1981), tập II (1982) và Công việc làm thơ (1984)... "chỉ tính riêng các tác phẩm lý luận phê bình, đã có thể gọi Xuân Diệu là một đại gia"(1)

  • BÙI QUANG TUYẾNThơ mới là một hiện tượng nổi bật của văn học Việt Nam nói chung và thơ ca nói riêng trong thế kỷ XX. Nó vừa ra đời đã nhanh chóng khẳng định vị trí xứng đáng trong nền văn học dân tộc với các "hoàng tử thơ": Thế Lữ, Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử v..v...

  • HÀ KHÁNH CHINgày 20 - 3 - 2003, siêu cường lớn nhất mọi thời đại là đế quốc Hoa Kỳ đã mở đầu cuộc chiến tranh kỳ quái nhất trong lịch sử bằng cách tấn công Iraq sau khi đã bắt quốc gia này phải tự phá huỷ vũ khí tự vệ của chính họ. Đó là bài học chưa hề thấy về chút hy vọng cuối cùng mà lương tri nhân loại có thể đòi hỏi. Để có thể hiểu rõ hơn những gì đang xảy ra hôm nay - có lẽ cũng rất cần ôn lại một trong những vấn đề lớn nhất mà loài người có thể nghĩ tới: cuộc chiến tranh Việt Nam đã kết thúc cách đây gần 30 năm.

  • HOÀNG ĐĂNG KHOA Văn học Việt từ sau 1975, nhất là từ thời kỳ đổi mới, là một quá trình văn học rất phong phú, đa dạng và không ít phức tạp, lại còn đang tiếp diễn. Cuốn sách Văn học Việt Nam sau 1975 - Những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy ra đời đáp ứng nhu cầu mang tính thời sự: nhu cầu nhìn nhận, đánh giá một cách khách quan, toàn diện về tiến trình văn học ba mươi năm qua, chuẩn bị cho sự ra đời của những công trình văn học sử và những chuyên khảo về giai đoạn văn học này.

  • NGUYỄN QUANG HÀTrong đời có những bài thơ người ta quên, mà chỉ nhớ một câu nằm lòng. Bởi đó là những câu thơ thực sự, những câu thơ thi sĩ. Từ xưa đến nay, đã có rất nhiều định nghĩa về thơ: Thơ là tiếng hát của trái tim; Thơ là hạt muối kết tinh của tình cảm; Thơ là phút giây rung động của tâm hồn... Nói chung, những định nghĩa ấy cho ta hiểu rằng ở đâu có được sự rung động của trái tim thì ở đó có thơ.

  • ĐỖ LAI THUÝPhê bình văn học Việt Nam, sau sự khởi nguồn của Thiếu Sơn với Phê bình và Cảo luận (1933) chia thành hai ngả. Một xuất phát từ Phê bình để trở thành lối phê bình chủ quan ấn tượng với Hoài Thanh và Thi nhân Việt Nam (1942). Lối kia bắt nguồn từ Cảo luận tạo nên phê bình khách quan khoa học với Vũ Ngọc Phan của Nhà văn hiện đại (1942), Trần Thanh Mai của Hàn Mặc Tử (1941), Trương Tửu của Nguyễn Du và Truyện Kiều (1942), Tâm lý và tư tưởng Nguyễn Công Trứ (1945). Sự phân chia này, dĩ nhiên, không phải là hành chính, mà là khoa học, tức sự phân giới dựa trên những yếu tố chủ đạo, nên không phải là không thể vượt biên. Bởi, mọi biên giới đều mơ hồ hơn ta tưởng, nhất là ở khoa học văn chương.

  • LTS: Marcel Reich-Ranicki, sinh năm 1920, người ở Đức được mệnh danh là "Giáo hoàng văn học", là nhà phê bình văn học đương đại quan trọng nhất của CHLB Đức. "Một lời biện hộ cho thơ" là bài thuyết trình đọc vào ngày 30.11.1980 nhân dịp ra mắt Tập 5 của "Tuyển thơ Frankfurt" trong khuôn khổ chuyên mục thơ của nhật báo "Frankfurter Allgemeine Zeitung" (FAZ) mà tác giả là chủ biên phần văn học từ 1973 đến 1988.Sông Hương xin trân trọng giới thiệu bài "Một lời biện hộ cho thơ" của ông sau đây do dịch giả Trương Hồng Quang thực hiện.