HUỲNH HỮU ỦY
Trong quá trình hình thành nền văn hóa dân tộc, giấy dó đã góp phần trong việc phát triển học thuật và nghệ thuật.
Tác phẩm “Rêu phong nắng vàng” (sơn dầu) - Dương Phước Luyến
Ngược dòng lịch sử một chút, để tìm lại hương thơm trên những trang giấy cũ, tài liệu thư tịch học từng chỉ cho chúng ta biết: năm 284 CN, thương nhân La Mã mua của ta ba vạn tờ giấy mật hương để dâng lên vua Tân Vũ Đế. Học giả Bắc phương Kê Hàm, vào thế kỷ IV, đã xác định rằng giấy mật hương của ta được làm bằng gỗ trầm hương, thơm nhẹ thoang thoảng, màu trắng ngà, có vân vẩy cá, thả vào nước không tàn nát. Và đến thế kỷ IX, một nhà nghiên cứu khác của Trung Hoa là Vương Gia còn cho biết thêm về loại giấy trắc lý làm bằng rong rêu ngoài biển của người Giao Chỉ ở phương Nam. Những thứ giấy trên đều phảng phất tính cách của giấy dó, hay chính là tiền thân của giấy dó sau này.
Giấy dó đã gắn liền với nền văn hiến đẹp đẽ của đất nước qua nghề in mộc bản.
Bao nhiêu sách quý, những trang cổ thư chứa chan hồn nước, những thông điệp truyền thừa của tổ tiên từ đời này đến đời khác đều được gửi gấm trên những trang giấy dó.
Và rất quen thuộc, nhắc đến giấy dó, chúng ta nghĩ ngay đến tranh điệp Đông Hồ, in trên giấy dó làng Bưởi, sản xuất ở phường Yên Thái, ngoại thành Hà Nội.
Giấy dó làm bằng vỏ cây dó bầu, với một kỹ thuật thủ công giản dị; vỏ cây đem ngâm nước lã, ngâm nước vôi, nấu cách thủy, lại ngâm nước vôi loãng, rồi lọc bỏ lớp vỏ ngoài, chỉ giữ lại phần vỏ trắng tinh tuyền bên trong, mang ra giã cho thật nhuyễn, hòa với keo làm bằng nhựa gỗ cây mò, đổ vào khuôn lưới mỏng để in thành giấy. Nhịp chày giã vỏ dó ở phường Yên Thái, bên cạnh Hồ Tây, đã một thời gắn liền với những sinh hoạt thơ mộng và đẹp đẽ nhất.
Mịt mù khói tỏa ngàn sương
Nhịp chày Yên Thái, mặt gương Tây Hồ.
Chính trên những trang giấy dó ấy, tranh điệp làng Hồ được in ra rồi gửi đi khắp nơi, trải qua nhiều thế kỷ, đã là một tiếng nói xôn xao mà thiết thân và đầm ấm biết bao nơi thâm sâu của mỗi hồn người.
Ngày nay, có một vài họa sĩ mới cũng muốn nghiên cứu chất liệu giấy dó để sáng tác. Nhưng phần nhiều mới chỉ là thử bút. Giữa các cây cọ ấy, có lẽ Dương Phước Luyến là người đã dồn nhiều công sức tập luyện nhất, và cũng đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể.
Hội họa của Dương Phước Luyến thực sự chẳng có gì mới, có thể khẳng định ngay rằng anh chỉ đi tiếp trong con đường truyền thống đã vạch.
Truyền thống ở đây được hiểu theo một nghĩa hẹp nhất, là con đường vạch ra từ trường Mỹ Thuật Đông Dương (Ecole des Beaux Arts de L’Indochine) rồi rẽ thành các nhánh: Cao đẳng Mỹ thuật Gia Định, Cao đẳng Mỹ thuật Huế. Chính là con đường mà các danh họa cận đại Việt Nam đã đi qua như Lê Phổ, Nguyễn Gia Trí, Mai Trung Thứ, Lê Thị Lựu, Tôn Thất Đào, Lê Yên, Lê Văn Đệ...
Mặc dù không trải qua các ngày học tập căn bản ở các trường mỹ thuật ấy, anh chỉ tự mình rèn luyện lấy, nhưng về phương pháp, cách tư tưởng và tâm hồn nghệ thuật thì quả đúng là như vậy mà thôi.
Lại còn có được nhiều lợi thê khác nữa: Thứ nhất, là một kiến trúc sư, anh tập luyện được khá chính xác cách nhìn sự vật, thế giới của những đồ án giúp cho anh rất chắc tay trong ghi nhận và bố cục hội họa sau này. Thứ nhì, là môn đồ của danh họa Lương Thiếu Hàn, bậc thầy của trường phái Lĩnh Nam ở Sài Gòn trước đây, anh nắm được nhiều bí quyết tinh tế của mực tàu trên giấy xuyến chỉ; khi chuyển kỹ thuật ấy lên giấy dó, có nhiều điều gần gũi và anh dễ dàng chế ngự được thế giới bút mực, màu sắc của mình. Giả dụ như những vết mực nho loang ra có vẻ rất phóng túng, nhưng kỳ thật ở trong nghề người ta sẽ hiểu ngay là chúng thật kỷ luật và trật tự biết bao!
Vấn đề sau cùng đối với Dương Phước Luyến chỉ còn là sự mải mê làm việc. Một giá vẽ, một cặp giấy, anh lặn lội khắp nơi trên ba miền đất nước. Những thành quách, cung điện hoang phế, những mái chùa cổ, những khu phố cổ rêu phong, những con đường làng, một đỉnh núi, một quan ải, một dòng sông... Tất cả đã được ghi nhận, sắp xếp và vẽ vời trở lại rất đáng yêu mến.
Dương Phước Luyến yêu nghề hội họa và yêu đất nước của mình. Anh đi và ghi chép. Ghi chép khắp nơi, với sự chọn lọc bằng cảm quan riêng của mình. Mỹ cảm của anh ôn nhu, hiếu hòa, quân bình, giản dị. Nên nghệ thuật của anh cũng vậy: êm đềm, thơ mộng, pha nhiều chất cổ kính, u hoài.
Anh đã tìm ra được con đường riêng của mình, với một cách phát biểu riêng, một ngôn ngữ riêng. Chúc anh bước đi ngày càng vững chắc hơn, trên con đường dó lụa gần gũi, thân mật mà vẫn cứ là độc đáo.
H.H.Y
(SHSDB30/09-2018)
VŨ PHƯƠNG
Trong dòng nghệ thuật biểu ý, dựa trên ngôn ngữ biểu hiện ở Huế, thì Trương Thế Linh nổi lên như một hiện tượng tiêu biểu.
KHẢ HÂN
Francesco Clemente sinh năm 1952, ở Naples, Italy. Ông xuất hiện vào thời điểm khi mà Thế chiến II vẫn còn là một ký ức dai dẳng khắc sâu thành những vết nứt trong tâm thức sáng tạo của cộng đồng nghệ sĩ ở dải đất ven vùng biển Địa Trung Hải này.
TRẦN PHƯƠNG ĐÔNG
Lê Kinh Tài là một trong những nghệ sĩ đương đại rất thành công ở Việt Nam hiện nay. Sự thành công được minh chứng không chỉ ở số lượng tác phẩm lớn, những tìm tòi nghệ thuật không mệt mỏi mà cả ở giá tranh của ông trên thị trường quốc tế.
TRẦN PHƯỢNG TRÚC LINH
Nếu như nói bi kịch là một trong những suối nguồn không bao giờ vơi cạn, thì trường hợp Francis Bacon là một minh chứng thuyết phục. Hội họa của Francis Bacon đã khai thác tận cùng nỗi đau của con người.
VŨ HIỆP
Nền mỹ thuật hiện đại Việt Nam có thể được tính bắt đầu từ khi Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương được thành lập năm 1925, vào thời điểm mà các trào lưu nghệ thuật hiện đại đang trăm hoa đua nở ở Pháp.
VŨ LINH
Thông thường, khi người phụ nữ làm nghệ thuật, họ có thiên hướng lựa chọn những kiểu dạng ngôn ngữ bình dị, gần gũi, mang tâm thức lãng mạn gắn liền với bản mệnh của thiên tính nữ.
VŨ LÂM
Thực hành nghệ thuật theo tư duy nghệ thuật hiện đại, hậu hiện đại đang là bức tranh chung của các nghệ sĩ thị giác trẻ tuổi trong những thập niên qua như: Hà Mạnh Thắng, Phạm Huy Thông, Nguyễn Huy An, Vũ Đức Toàn, Bàng Nhất Linh, Thái Nhật Minh... Nghệ thuật của họ là sự pha trộn giữa tư duy nghệ thuật phương Tây và những cảm thức văn hóa của người Việt.
KHẢ HÂN
Alexander Bolotov là một họa sĩ người Ukraine, sinh ra và lớn lên tại thành phố Donetsk, Ukraine.
KHẢ HÂN
Vào ngày 26/03/2018, ArtQuench Magazine (Tạp chí làm thỏa mãn cơn khát nghệ thuật, viết tắt là AQM) đã công bố Hợp tuyển nghệ thuật và nhiếp ảnh ấn bản số II, qua đó nhằm giới thiệu đến đông đảo công chúng yêu nghệ thuật một số các tác phẩm nhiếp ảnh và nghệ thuật đặc sắc nhất trên thế giới, những tác phẩm mà AQM xem như là đặc biệt độc đáo và đem lại một nguồn cảm hứng đầy ấn tượng.
KHẢ HÂN
Trong khoảng những năm 1990, càng ngày hướng tiếp cận liên ngành với mục đích tiến hành diễn giải về các khía cạnh văn hóa trong sự đăng đối với sinh thái và môi trường theo một viễn tượng phê phán bắt nguồn từ bên ngoài lịch sử nghệ thuật truyền thống đã dần dần tạo được tiếng nói ngày một hoàn chỉnh hơn, đó chính là nhánh nghệ thuật phê bình sinh thái.
KHẢ HÂN
Nghệ thuật quân sự là loại hình nghệ thuật quan tâm đến các vấn đề về quân sự, ngoài điều này ra phong cách và phương tiện chuyển tải chúng đều ít được quan tâm hơn so với đề tài của nó.
TRIỀU SƠN
Lần đầu tiên, một triển lãm mỹ thuật sáng tác chuyên sâu về Chủ tịch Hồ Chí Minh được trưng bày tại Huế, mang một góc nhìn đầy ắp tình cảm về Bác Hồ kính yêu.
KHẢ HÂN
BẠCH DIỆP
Nàng vừa lạ vừa quen như bước ra từ khu vườn hoa hồng đầy ánh sáng.
KHẢ HÂN
Mùa thu không chỉ là đề tài gợi hứng cho những bức tranh phong cảnh mà còn là đề tài vẫy gọi hội họa thăng hoa trên những vùng miền của tưởng tượng. Một trong số những trào lưu thể hiện được chiều hướng này là hội họa siêu thực.
KHẢ HÂN
Nghệ thuật động lực là một trào lưu nghệ thuật hướng đến việc khai thác những hiệu ứng của sự chuyển động gây ra ở trong không gian.
NGUYỄN HÀNG TÌNH
“Mơ mộng” cũng là một đặc tính của giống loài này, người.
Có người quên, có người từ bỏ, có người lao vào.
KHẢ HÂN
Glenn Brown, họa sĩ người Anh, sinh năm 1966, hiện đang được xem là một trong số những họa sĩ nổi tiếng của hội họa thế giới đầu thế kỷ XXI.
Mới đây, tại Hội Mỹ thuật TPHCM, họa sĩ Bùi Quang Lâm đã triển lãm 55 bức tranh sơn dầu với chủ đề Miền đất lạ. Những tác phẩm được vẽ trong 30 năm về những miền đất lần đầu họa sĩ đặt chân đến, nhưng đã tạo nên những cảm xúc buộc họa sĩ… phải cầm cọ. Miền đất lạ được vẽ từ miền Tây Nam bộ đến Bắc bộ và Tây Bắc.
Trên những con phố nhộn nhịp ở phố cổ Hà Nội, tuy chỉ có một vài cửa hàng bán tranh cổ động, nhưng lại hấp dẫn khiến không ít du khách nước ngoài ghé thăm.