NGUYỄN ĐẮC XUÂN
Bạn đọc và những người am hiểu Huế chắc đã không lạ với tên tuổi của những người cháu và chắt của nhà thơ Tuy Lý Vương như Ưng Bình Thúc Giạ Thị, Ưng Quả, Bửu Cầm, Bửu Hội, Bửu Huyền (nhạc sĩ), Bửu Chỉ (họa sĩ) v.v.
Ảnh: internet
và thật là thiếu sót nếu không nhắc đến Bửu Ý - nhà giáo có một quá trình hoạt động văn học nghệ thuật đáng kể. Mở đầu cho đề mục GẶP GỠ - ĐỐI THOẠI trên Sông Hương, chúng tôi đã dành hỏi chuyện anh Bửu Ý.
Nguyễn Đắc Xuân:
Anh vui lòng cho biết anh đã học trường nào, học xong và đi dạy từ năm nào, anh đã dịch được bao nhiêu tác phẩm, tác phẩm nào anh vừa ý nhất?
Bửu Ý:
Tôi đã theo học các trường Institut de la Providence, tiếp theo là Lycée Francais ở Huế, và Lycée Yersin ở Đalat. Tôi tốt nghiệp Đại học Văn Khoa Huế năm 1960 nhưng, trước đó, tôi đã bắt đầu đi dạy năm 1957 tại trường Quốc Học Huế.
Tôi đã dịch trên 15 tác phẩm, trong đó có 10 tác phẩm đã in ra. Trong loạt này, anh hỏi tôi vừa ý cuốn nào nhất? Thật tình mà nói, tôi chẳng vừa ý cuốn nào cả. Lý do như thế này: thứ nhất, dịch thuật đã không gây thích thú cho tôi mà lại bắt tôi đổ công sức và mất thì giờ khá nhiều, vậy mà lắm khi vẫn phải làm; thứ hai, nếu có thích thú chăng, thì thích thú qua nhanh để ta nghĩ đến việc khác và không buồn nghe nhắc nhở đến nữa; thứ ba, bản dịch nào tình cờ đọc lại, tôi đều cảm thấy có thể sữa đổi thêm bớt nơi này nơi kia...
N.Đ.X:
Hiện nay tôi được biết anh phụ trách khoa Pháp văn và dạy Pháp văn, anh cho biết sinh viên của anh học môn ngoại ngữ này như thế nào? Họ có thích học không? Họ nghĩ gì về tương lai nghề nghiệp của họ?
B.Y:
Cái thích thú học tập của sinh viên nói chung, chứ không riêng gì sinh viên khoa Pháp, đi liền với sự kích thích học tập. Nó tùy thuộc vào nhiều yếu tố: điều kiện học tập, môn học, thầy dạy, nhất là viễn ảnh ra trường, bổ nhiệm và chen sống.
Nay điều kiện học tập (sách giáo khoa, tạp chí, phương tiện nghe nhìn, phim ảnh...) được cải thiện nhiều, triển vọng của tiếng Pháp có phần sáng sủa hơn. Riêng viễn ảnh tốt nghiệp và bổ nhiệm của sinh viên khoa Pháp vẫn bị trắc trở nặng nề: ra trường, sinh viên đứng trước hai ngả đường: hoặc là không có nhiệm sở, thất nghiệp và chờ thời; hoặc là tự thân vận động bằng những thủ thuật không mấy đẹp đẽ. Như vậy là sinh viên có lối vào trường (tuy khá chật vật) mà lại không có lối ra trường.
Tình trạng này ảnh hưởng đến tinh thần học tập, số lượng đội ngũ sinh viên, và cần được giải quyết gấp rút.
N.Đ.X:
Người ta thường quan niệm muốn học giỏi ngôn ngữ của một nước phải am hiểu lịch sử, văn minh, văn hóa của nước đó. Anh cho biết sinh viên Pháp văn của anh có được đào tạo theo hướng đó không?
B.Y:
Hiện nay, trong cả nước, sinh viên khoa Ngoại Ngữ nói chung đều học "ngữ" nặng hơn học "văn" trong suốt học trình 5 năm. Sinh viên học "văn học" và "văn minh" đất nước Pháp trong hai năm cuối, và học các yếu tố "văn hóa xã hội" bàng bạc qua từng bài khóa của các sách giáo khoa dạy tiếng Pháp. Ngoài ra, sinh viên trau dồi thêm tri thức về nước Pháp qua báo chí và phim ảnh của phòng Tư liệu và phòng Thiết bị của khoa Pháp.
N.Đ.X:
Anh cho biết sơ lược về mối quan hệ của khoa PV ĐHSP Huế với các tổ chức của chính phủ và phi chính phủ ở Pháp? Các tổ chức ấy đã giúp gì? Giá trị của sự giúp đỡ ấy?
B.Y:
Chúng tôi có những thảo luận bước đầu hoặc những thỏa ước trong phạm vi hợp tác nghiên cứu khoa học và xây dựng phát triển với Paris, Bordeaux, Besancon.
Đại sứ quán Pháp ở trong nước giúp chúng tôi những trang thiết bị, sách báo, phim ảnh, một hai học bổng hàng năm tu nghiệp tại Pháp.
Ngoài ra, đoàn thể tư nhân CODEV (Coopération et Développement, Hợp tác phát triển) hoạt động rất tích cực không riêng với khoa Pháp hoặc trường Đại học Sư phạm Huế mà còn đối với cả thành phố Huế. Tổ chức này có đại diện thường trực tại Huế, tiến tới sẽ có trụ sở. Họ cấp học bổng (tuy không lớn lắm) cho toàn bộ sinh viên khoa Pháp kèm theo một số sinh viên các khoa khác học tiếng Pháp, giới thiệu người "đỡ đầu". Họ giúp đỡ thiết kế đường điện ở vài địa điểm trong thành phố, đổ vốn ra thúc đẩy sản xuất một số mặt hàng tiểu công nghệ mà họ sẽ làm môi giới tìm thị trường tại Pháp, tự nguyện bảo trợ những công trình nghiên cứu chỉnh trang và phát triển thành phố Huế v.v. Tháng 4.1991, đoàn thể này mở tại Huế một lớp học về "Quản lý kinh tế" (Gestion économique). CODEV là một đoàn thể gồm những thành viên ở nhiều địa hạt hoạt động xã hội khác nhau, vì vậy có tiềm năng phong phú và đa dạng. Điều đáng quý ở họ, là: họ là những người thông hiểu và thông cảm những khó khăn và thiếu tiện nghi của ta, họ là những người ở tư thế "sẵn sàng" và chờ đợi chúng ta "sẵn sàng" để cùng nhau bắt tay vào việc.
N.Đ.X:
Trước kia tôi có nghe sinh viên ngoại ngữ gặp nhiều khó khăn trong việc tiếp xúc với người nước ngoài, hiện nay anh thấy có còn gì khó khăn nữa không? Những khó khăn (nếu có) ấy giải quyết bằng cách nào?
B.Y:
Tình hình, nói chung, khá cởi mở. Ta chỉ nên tránh sự phóng túng, xô bồ mà thôi. Huế phải là một trung tâm du lịch càng ngày càng khẳng định mình và càng ngày càng thu hút du khách. Khách nước ngoài thường khen tặng dân tình ở đây bằng nhận xét: "Đi đâu chúng tôi cũng thấy nụ cười, không thấy ai có cử chỉ ác cảm hay là gây hấn đối với chúng tôi".
Chúng tôi đề nghị Ngoại vụ Tỉnh và các phần hành công an quy kết lại thành một đầu mối để cho trường học liên hệ công tác thuận tiện và mau chóng trong việc đối ngoại.
N.Đ.X:
Tôi cũng được biết anh đã được sang Pháp tu nghiệp 9 tháng, anh cho biết những thu hoạch chính trong chuyến đi đó có ích lợi gì trong việc giảng dạy và dịch thuật Pháp văn của anh?
B.Y:
Tôi thu hoạch được rất nhiều điều đáng quý nhưng chẳng liên quan gì đến việc giảng dạy và dịch thuật của tôi. Tôi xin tâm sự với anh như thế này:
Tôi rất thích nhiều mặt tổ chức xã hội tại Pháp, như: các phương tiện vận chuyển công cộng, vệ sinh đường phố, ý thức làm đẹp sân bãi, tụ điểm giải trí, siêu thị, sự hội nhập của người nước ngoài vào xã hội Pháp, lòng trân trọng yêu quý đối với lịch sử đất nước và tiến hóa loài người (hay là cái "ý thức bảo tàng"), tình yêu thiên nhiên thể hiện qua sự chăm sóc cây trồng, bảo vệ chim, tổ chức thông tin và tiện nghi đến các vùng xa xăm nhằm xóa nhòa mức sống chênh lệch giữa các vùng lớn nhỏ, đề cao nét độc đáo của từng nơi nhỏ, tạo thủ đô thành một nơi lễ lạc suốt ngày và suốt năm... Tạm nêu ra với anh một số khía cạnh trong đời sống ở Pháp mà tôi sực nhớ ra như vậy.
Tôi còn làm quen một số người Việt tại Pháp thuộc nhiều ngành nghề khác nhau. Họ tò mò và vui mừng gặp tôi, không phải vì cá nhân tôi, mà vì những gì thuộc về Việt Nam mà tôi đang chuyên chở. Những tình cảm quê hương nung nấu tâm hồn họ, khiến cho họ lăn xả vào cuộc sống, tạo cho họ một đời sống phong phú về nhiều mặt, trong khi họ vẫn thao thức không nguôi về thân phận tha hương của mình.
Tôi sợ anh cho rằng mấy lời dông dài này đi lệch ra ngoài câu hỏi của anh. Nhưng tôi thiết nghĩ rằng những kinh nghiệm run rủi của tôi trên đất người không ngớt âm vang trên những công việc hàng ngày của tôi.
N.Đ.X:
Anh có nhận xét gì về tình hình dịch thuật văn học Pháp ở nước ta hiện nay? Anh có dự định dịch thuật gì không? Nếu có anh cho biết vì sao anh chọn những tác phẩm ấy?
B.Y:
Thú thật tôi không theo dõi tình hình dịch thuật một cách đầy đủ, nên tôi sợ ý kiến của mình có thể sai sót.
Trước hết, tôi có cảm tưởng các nhà xuất bản không có kế hoạch dài hơi và chủ trương rạch ròi về việc này.
Tôi nhận thấy vấn đề dịch thuật hiện nay đang lâm vào một tình trạng khá phức tạp và bất bình thường: có lẽ vì bớt thích truyện sáng tác mà người ta đọc truyện dịch, chứ không hẳn đọc truyện dịch như là truyện nước ngoài với ý thức mở ngỏ đối với những chân trời mới. Một điểm khác: người ta đọc truyện dịch là hòng mong tìm ra một lối thoát cho tưởng tượng, và trong chiều hướng này, người ta bay bổng theo một cảnh lạ hoặc một cốt truyện hấp dẫn: đây là một sự tìm kiếm bù đắp vào những khoảng trống trong đời sống và tâm hồn người đọc. Cho nên thay vì hướng đến truyện, người đọc lại hướng vào chính mình. Hệ quả của hiện tượng này là: người ta vẫn đọc truyện nước ngoài nhưng không bận tâm đến văn học nước ngoài.
Hiện nay tôi không định dịch tác phẩm nào hết. Tôi mất hứng thú đối với công việc này vì vài dịch phẩm của tôi tiếp tục bị mắc kẹt - và có lẽ bị mắc kẹt chung thân - tại vài nhà xuất bản: Nhà xuất bản Quảng Nam Đà Nẵng, Nhà xuất bản Tác phẩm mới ở Hà Nội và... Tủ Sách Sông Hương ở Huế.
N.Đ.X:
Huế là một trung tâm văn hóa Việt Nam, anh nghĩ gì về tình hình trao đổi văn hóa VN và văn hóa Pháp trên đất Huế? Đã đến lúc đề xuất nên hình thành dần dần một trung tâm văn hóa Pháp tại Huế chưa?
B.Y:
Những trao đổi văn hóa giữa Pháp và Việt Nam, và riêng với Huế, đã khởi công bằng những bước dò dẫm đầu tiên.
Đại học Bordeaux III và Khoa Viễn Đông đã soạn thảo thỏa ước hợp tác với Đại Học Sư Phạm Huế nhằm trao đổi sinh viên và giáo viên. Đại Học này cũng sẵn sàng hỗ trợ việc thành lập một Đại Học Pháp Ngữ dạng tư thục tại Huế. Những dự án này chỉ chờ đợi đèn xanh phía ta bật ra là tiến hành.
Nhà xuất bản Syros ở Paris từng có đại diện sang thăm Huế, hiện đang dịch thơ và truyện ngắn của một số tác giả Thừa Thiên Huế ra tiếng Pháp.
Một số nhân vật trong chính quyền Pháp đặc biệt có cảm tình với Huế mà ta có thể tranh thủ được, trong số đó có thị trưởng Paris là Jacques Chirac, Bộ trưởng khối Pháp ngữ Alain Decaux, Bộ trưởng văn hóa Jack Lang. Theo một nguồn tin đáng tin cậy, ông Jack Lang sẵn sàng yểm trợ cho ta tổ chức một Đại hội thanh niên Pháp - Việt tại Huế nếu như phía ta cũng sẵn sàng.
Ông Michel Fournié, Giáo sư Việt ngữ tại học viện Quốc gia nghiên cứu các ngôn ngữ và văn minh Đông Phương, tháng 3.1991, sang thăm Hà Nội, Huế, Saigon và bàn thảo chương trình hợp tác trao đổi.
Dịp hè 1991, nếu ta đồng ý, sẽ có một đoàn học sinh phổ thông nhiều quốc gia trong khối tiếng Pháp đến Huế.
Huế cũng đã gửi sang Paris, trong ý hướng giới thiệu nghệ thuật của Huế với người Pháp, các họa sĩ Bửu Chỉ, Hoàng Đăng Nhuận, và đoàn ca sĩ...
Trong lãnh vực trao đổi văn hóa, ta có nhiều khả năng và tiềm năng.
Riêng Hội Văn Học Nghệ thuật Thừa Thiên Huế và Tạp chí Sông Hương nên chuẩn bị tinh thần và sức lực cho việc này. Tôi mong anh em văn nghệ sĩ Huế sẽ có nhiều dịp đi Pháp.
Người Pháp ngày xưa biết nhiều về Huế và để lại nhiều bút tích, trong đó có bộ tạp chí giá trị là BAVH sẽ trở thành sợi chỉ Ariane dẫn dắt người Pháp thế hệ hôm nay đến Huế như là trở về một quê hương văn hóa chung, hay là một trung tâm du lịch cần bảo tồn của mọi người.
Hiện nay Trung tâm văn hóa Pháp chưa hình thành trên danh nghĩa, nhưng đã tượng hình về mặt hoạt động. Trong khuôn khổ Đại Học Sư phạm Huế, đang hoàn thành trang thiết bị cho một Trung Tâm hoạt động tiếng Pháp (Centre d’Animation Francophone). Cũng nên nói thêm rằng đang có một Tùy viên Ngôn ngữ Pháp (Attaché Linguistique) thường trú tại Huế.
N.Đ.X:
Anh cũng là một ủy viên trong BCH Phân hội Văn học của Hội Văn nghệ TTH. Anh có nhận xét gì về tình hình văn nghệ của VN nói chung và của TTH nói riêng hiện nay?
B.Y:
Thấy người ta làm báo ở thành phố Hồ Chí Minh mà thèm thuồng, náo nức. Thừa Thiên Huế làm ăn chậm chạp, rụt rè, "phải đạo", lâu lâu vẫn bị mắng mỏ. Tóm lại: buồn bã và tỉnh lẻ. Chạnh lòng nhớ đến câu: "Mẹ tôi âu yếm nắm tay tôi dẫn đi trên con đường làng dài và hẹp".
Xin cám ơn anh đã trả lời cuộc phỏng vấn của Tạp chí Sông Hương.
6.2.1991
N.Đ.X
(TCSH45/03-1991)
Đồng chí Nguyễn Chí Thanh trong cương vị Bí thư tỉnh ủy Thừa Thiên Huế - nhà lãnh đạo xuất sắc trên lĩnh vực chính trị, tư tưởng
TH.S PHAN CÔNG TUYÊN ( * )
DƯƠNG PHƯỚC THU
Đồng chí Nguyễn Vịnh sinh ngày 1 tháng 1 năm 1914, theo can chi là ngày mồng 6 tháng Chạp năm Quý Sửu, trong một gia đình trung nông ở làng Niêm Phò, xã Quảng Thọ, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế.
NGÔ THIÊN THU - NGUYỄN ÁI VƯỢNG
Từ trước đến nay nhiều sách vở ghi chép về Trương Văn Đa cũng như bố ông là Trương Văn Hiến đều thiếu thông tin khi nói về quê quán gốc tích.
Ở góc phố đường Bà Triệu (TP.Huế), hình ảnh một ông già 80 tuổi ngày ngày ngồi bên chiếc xích lô quay quắt ngóng khách đã trở nên quen thuộc với nhiều người. Ông như một nốt nhạc trầm giữa cuộc sống xô bồ. Nhưng ít ai biết rằng, ông là một cậu bé liên lạc cảm tử quân ngày nào. Sau hơn 30 năm cầm súng, ông đã góp công giữ lại hình hài của tổ quốc hôm nay.
Nói là nghề “kỳ dị” bởi lẽ đây là nghề “có một không hai” ở xứ Huế, đó là nghề làm mõ mà mọi người thường thấy ở các đình chùa. Việc làm ra một chiếc mõ đòi hỏi rất công phu và tỷ mỷ, ngoài việc tạo hình thì việc tạo ra âm thanh cho chiếc mõ cũng là một vấn đề nan giải. Cũng bởi vì tính chất phức tạp đó nên mọi người hay gọi đây là một nghề “kỳ dị”, vì không phải ai cũng có đủ kiên nhẫn và có cái tâm để theo đuổi nghề…
Chị đã làm xao xuyến bao khán giả ở thủ đô Bern, Zurich, Geneva...qua những làn điệu dân ca Việt Nam và Thụy Sỹ. giọng ca của người con gái dòng dõi hoàng tộc đang định cư tại Thụy Sỹ Camille Huyền cùng tiếng guitar bậc thầy của nghệ sĩ Walter Ginger luôn được đợi chờ trong mỗi kỳ Festival Huế.
HỮU THU - BẢO HÂN
Tin buồn
Năm Đinh Mùi - 1967. Huế vào kỳ giêng, hai khá lạnh. Sáng ấy, như lệ thường, tôi ngồi ở quán Lạc Sơn. Đang nhâm nhi ly café, bất ngờ có chiếc Dodge mui trần trờ tới.
(SHO).Lễ kỷ niệm 100 năm Ngày sinh Đại tướng Nguyễn Chí Thanh sẽ được tổ chức thật sự ý nghĩa, làm nổi bật cuộc đời hoạt động và những cống hiến xuất sắc của Đại tướng cho lý tưởng độc lập dân tộc và CNXH, cho quá trình xây dựng chiến đấu thắng lợi của Quân đội nhân dân Việt Nam.
SINH VIÊN PHẬT TỬ HUẾ TUYỆT THỰC
Hồi ký của THÁI KIM LAN
LÊ HUỲNH LÂM
Xứ Huế vốn trầm mặc, không gian Huế thường gắn với hoài niệm, là nơi để trở về. Cái thường phô diễn ra bên ngoài ở xứ sở này là nắng, mưa, là dòng Hương xanh mượt mà, hay Ngự Bình vi vu thông reo, hoặc là những chiều hiu quạnh ngắm hoàng hôn, hay những đêm dài của những bước chân phiêu lãng, và những buổi sáng tan vào hơi mù lân la khắp các ngã phố,...
TRẦN VIẾT ĐIỀN
Ngài Mai Khắc Đôn (1853 - 1930) là một Nho sĩ, một vị quan có tinh thần yêu nước, thương dân và đặc biệt ngài là một trong những người thầy có ảnh hưởng khá sâu sắc đối với nhà vua yêu nước Duy Tân.
NGUYỄN ĐÌNH NIÊN
100 năm ngày sinh Hàn Mạc Tử
Theo những tài liệu hiện có và theo sự dò hỏi của chúng tôi, từ các thân hữu còn sống của thi sĩ, những người đàn bà thi sĩ đã kinh qua cuộc đời Hàn Mạc Tử, đó là: Hoàng Cúc, Mộng Cầm, Mai Đình và Thương Thương.
LÊ VĂN LÂN
Chi bộ Trí thức là một cụm từ vừa thân quen vừa lạ lẫm. Thân quen là đối với những người hoạt động trong phong trào đô thị Huế. Và lạ lẫm là trong công tác xây dựng Đảng, đặc biệt là ở thời điểm 9 năm kháng chiến chống Pháp. Những năm 1948 - 1950 ở Huế có một Chi bộ như thế: Chi bộ Trí thức.
THANH HUẾ
Sinh thời vua Minh Mệnh rất hay làm thơ, nhưng ông làm thơ để chăm lo chính sự, lo cho dân.
TRƯƠNG SỸ HÙNG
Đề từ tập Bút hoa, thơ tập cổ của Phan Mạnh Danh năm 1942, do chính tác giả chuẩn bị bản thảo từ năm 1896 đến trước khi mất (1942); Ưng Bình Thúc Giạ Thị đã viết:
Lê Quang Long - vị cố vấn quân sự đầu tiên của Hoàng thân Xuphanuvông
PHẠM HỮU THU
ĐÀI LÂN
Kỷ niệm 32 năm ngày mất của giáo sư Tôn Thất Chiêm Tế
Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến hào hùng và thiêng liêng của chủ tịch Hồ Chí Minh ngày 19/12/1946 đã thúc giục, lôi cuốn nhiều lớp người đặc biệt là thanh niên, trí thức trong toàn quốc, thoát ly tham gia cách mạng.
LTS: Huế là nơi có Thái Y viện tập trung nhiều danh y, ngự y nổi tiếng triều Nguyễn, đồng thời có Bệnh viện Tây y đầu tiên ở Việt Nam - Bệnh viện Trung ương Huế. Hạ tuần tháng 3 vừa qua, Tỉnh ủy Thừa Thiên Huế đã ra Nghị quyết xây dựng Thừa Thiên Huế xứng tầm là Trung tâm y tế chuyên sâu của khu vực miền Trung và cả nước mà hạt nhân là Bệnh viện Trung ương Huế và Trường đại học Y Dược Huế, cả hai đều được nhà nước tuyên dương Anh hùng lao động thời kỳ Đổi mới.
BÙI MINH ĐỨC
I. Dẫn nhập
Trong số các ông vua triều Nguyễn, vua Tự Đức là người giữ vai trò hết sức quan trọng trong lịch sử cận đại của đất nước Việt Nam chúng ta.
THANH TÙNG Trong các bậc mẫu nghi thiên hạ ít ai được như Thái hoàng Thái hậu Từ Dũ. Bà là người mẫu mực về đức hạnh, yêu thương dân, nuôi dạy con giỏi và biết đối nhân xử thế; khi cần biết tham gia việc triều chính đúng mức, hiệu quả.