PHẠM XUÂN DŨNG
(Nhân đọc tập thơ “Hóa vàng đi Tường” của Phạm Nguyên Tường, Nxb. Thuận Hóa, 2021)
Tình cờ đọc hai bài thơ của Phạm Nguyên Tường mới đây trên Tạp chí Sông Hương, mượn cách nói của truyện chưởng Kim Dung, tôi nhắn tin cho anh nửa đùa nửa thật: Thơ trường phái cổ mộ! Và như một cơ duyên, tôi được đọc tập thơ mới nhất của Phạm Nguyên Tường trước khi xuất bản thì thấy cảm nhận của mình không đến nỗi vô lý. Một sự trùng hợp ngẫu nhiên chăng, cũng không biết nữa.
Tường vẫn là Tường của gần ba mươi năm trước, khi gây tiếng vang trong sinh viên bằng một giọng thơ lạ: “Thơ đến lúc cũng giở trò bội bạc/ Huống hồ em xa quá triệu tầm tay/ Ta với tới một vì sao đẫm ướt/ Thề không sáng nữa đêm nay...” (Thuở xa em). Nhưng ngay từ buổi đầu hồn nhiên và tươi mới ấy cũng đã báo hiệu một điều gì khác: “Phải chiếc lá vừa rơi xoay theo chiều mộng mị/ trước mặt mình như một quẻ âm dương?” (Đêm một mình). Và hành trình thơ, nhất là đến lúc này đã thực chứng những gì từng là linh cảm. Ngay cả tên tập thơ cũng đa nghĩa và bí hiểm, dù rằng không có bài thơ nào trong tập có tên như vậy và vẫn có cách giải nghĩa nhan đề theo hướng khác. Đây là một câu thơ của anh trong tập. Một tập thơ âm tính!
“Dễ hiểu” nhất trong tập thơ này cũng chỉ vài bài như: Giếng rồng, Chỉ dẫn trên đảo Cồn Cỏ, Đám lá tối trời, cho thấy tác giả vẫn không hề đoạn tuyệt với lối viết trước đây của mình, những bài thơ đã từng được nhiều bạn đọc gần xa yêu mến. Có điều thơ vẫn hay nhưng tiết chế hơn và cũng điềm tĩnh hơn. Bài đầu hai khổ, tám câu và hai câu cuối mỗi khổ đều bất ngờ thi vị: “Nước từng tắm táp tổ tiên/ Vừa từ trăm trứng nở nên đồng bào/ Giếng sâu vọng một âm xao/ Bốn ngàn năm níu dây gàu dưới tay/ Tôi về lạy Tổ chiều nay/ Xin gàu nước tắm về ngày nguyên sơ/ Đồng bào rời rã Âu Cơ/ Tôi còn vỏ trứng bên bờ giếng xưa”. Hay từ chỗ câu trước tả thực như văn nói, câu sau đã mở rộng trường liên tưởng bất ngờ, ưu tư trĩu nặng đến rùng mình: “Bến Nghè xưa “nơi tập kết hàng, vũ khí”/ Nơi nào tập kết máu xương?” (Chỉ dẫn trên đảo Cồn Cỏ).
Nhưng hầu hết những bài thơ trong tập này đều không “dễ hiểu” và thường chứa đựng nhiều ẩn ức ám ảnh, những suy nghiệm của quán chiếu tâm linh thể hiện một sự nỗ lực tìm tòi, khai phá và sáng tạo, tự làm mới mình của Phạm Nguyên Tường. Còn-mất, sống-chết và cả những hóa thân trong cõi phù hư với những “khoảng lặng” đằng sau câu chữ đã xuyên suốt tập thơ. Ngay cả khi đứng trước nơi từng thảm sát ở miền Tây Nam Bộ cũng đã ngậm ngùi hoài cảm về phận số bàn-cờ-người-thế-sự chẳng thể đổi thay trong tiếng vọng của binh đao ngày trước: “Bàn cờ tướng khắc trên sân nhà cũ/ Sắp sửa chìm xuống vàm Khâu Băng/ Những người đánh cờ lo chạy nước/ Cửa biển mênh mông sông hạ thủ bất hoàn.../ Tôi đứng bóng một bàn cờ sạt lở/ Những cồn bãi mất đi những cồn bãi thành hình/ Những người chết đi những người mới sống/ Hạ thủ bất hoàn những con nước phù sinh” (Đứng bóng). Nếu ai biết đánh cờ tướng sẽ thuộc câu cửa miệng của các kỳ thủ: hạ thủ bất hoàn (nước cờ đã đi không thể hồi lại, không thể đổi thay) mới thấy hết trớ trêu, tàn nhẫn và oan khiên trong chinh chiến; nên có những điều thật kinh khủng, dù vô tình hay cố ý trong lịch sử và đời thường đã diễn ra là chẳng thể nào thay đổi, không bao giờ, dù thành tâm đến mấy, một khi đã đi thì như nước cờ kia là: hạ thủ bất hoàn! Để thơ hôm nay đến đây chính ngọ lập đàn tràng.
Ngay bài Một hơi gió cũng có vẻ dễ hiểu nhưng tác giả đưa vào yếu tố lạ như “màu chàm hờn”, “xanh hờn chàm” khiến bức tranh biên viễn Tây Bắc gợi nhớ chuyện đã qua nhiều năm trước về chiến chinh não nề, ai oán. Và câu cuối tưởng nhẹ nhàng nhưng lại dụng điển văn chương: “Tưởng nghìn năm đứng gió/ Nước sông xanh hờn chàm/ Tôi trộn cùng nước ấy/ Một thinh lặng khôn kham”. “Đời nhẹ khôn kham” là một tiểu thuyết của nhà văn Tiệp Khắc Milan Kundera. Hai chữ cuối được hiểu là một mình chịu đựng không nổi, một ý niệm hiện sinh của tiểu thuyết này. Hiển nhiên đó cũng là kết cục tâm trạng thơ đã vượt quá xa ngưỡng an bình.
Phần còn lại là những bài thơ dồn nén, bí ẩn pha sắc màu kinh dị khiến người đọc ngạc nhiên và dẫn dụ họ vào mê lộ. “buốt buốt buốt quay tời/ giờ hành xác về rượt đuổi/ nghi lễ trắng cử hành/ những bông hồn u muội...” (Nghi lễ trắng). Không có cả những dấu câu, những chữ đầu viết hoa, tất cả đều bình đẳng và vừa tách rời vừa dính chặt vào nhau một cách cố ý. Cũng như trong bài Vạn thọ chữ nghĩa cố tình đánh đố khi các từ lên đồng giăng mắc nhau trong cơn hô ứng. Vạn thọ nhưng chắc gì đã không chạm mặt sinh tử có khi tan chảy như một que kem đường phố. Lối viết tự động nhập vào bút pháp tân hình thức:
Dòng người cuộn trôi
từng động cơ gầm rú
đùi cằng mắt kiếng cổ cồn bóng hình “hàng hiệu”
... sống một chiều đi
một chiều mắt
tình một chiều liếm
kem một chiều chết một chiều…
Còn với bài Rượu cúc võ thìn là một khúc thơ tân hình thức miên man dù chỉ gói gọn trong 50 chữ chừng như nhớ thất tuần của người đã khuất, dù rất ngắn, nhưng cũng tràn ngập nỗi niềm và dư âm dư vị.
rượu lúc cúc vàng hơi võ
thìn một thành cổ kiêu bạc
vần vũ tóc không dài hết
tiếng cười khan rũ một chiếu
thơ ngoài giang hồ rượi mấy
manh đời tụ bạ mai mốt
có người về thị xã khóc
giùm mắt rượu một giọt cúc
vàng hoe
Hay trong bài Ẩm mục thác gợi đến linh sơn Bạch Mã thì không chỉ dừng lại ở tân hình thức mà còn toan đưa thơ vào mật thất bất khả tri với những ký hiệu ngữ nghĩa tối giản và nhiều khi tối om, cố tình chặt bớt nhiều đoạn dây liên tưởng trong tư duy thông thường, đưa người đọc vào một cuộc phiêu lưu bí hiểm và mạo hiểm. Ám ảnh về sự chết cũng tối mờ trong bóng-đêm-thơ. Nhưng chết không phải là dấu chấm hết, mà có thể đó bắt đầu cho một sự tái sinh. Nhưng đó cũng chỉ là cảm nhận mơ hồ và phán đoán...
Tiếng hát ma mị của hoa đỗ quyên
dẫn dụ thác
trườn thân rắn trò tiêu khiển con tin
mạo hiểm trò cô độc
thác đổ thác về
con tin ẩn cư tự nguyện
chôn chặt mắt người
vùng đệm thực bì ẩm chuyện
thác ẩn cư tự nguyện
vầng trán thanh xuân người
cách nào nhận biết
mùi lớp lớp chết sinh sôi
...
Xin dừng lại một chút ở thơ lục bát Phạm Nguyên Tường. Anh vốn sở trường và thành danh với thể thơ tự do nhưng ở tập thơ này lại xuất hiện một người thơ sáu-tám có nhiều mới lạ. Chưa kể một vài câu lục bát xen lẫn trong các bài thơ tự do, thuần lục bát có đến sáu bài. Nếu thơ lục bát với ràng buộc khúc thức dễ làm, khó hay thì ở tập thơ này cảm giác thi nhân đã vượt qua được lực hút của gia tốc trọng trường thể thơ truyền thống. Nó không thể làm khó anh mà trái lại, anh đã làm chủ, tạo nên giọng điệu riêng cho mình, cả trong lục bát (giếng rồng, em khùng cười, Ngư Mỹ Thạnh, Mẹ Huệ Nam, Bến sông, Bài thất thủ mới). Không hiếm những câu thơ khá lạ, hay và bất ngờ: “Mặt người chìm lên gió mưa/ Người đầm hoang tiếng chuông chùa co ro”; hay: “Người tanh tiếng thở muôn trùng/ Dựa lưng cô miếu thờ chung một đầm” (Ngư Mỹ Thạnh); hoặc giọng thơ mềm mại ca dao nhưng ý tứ, câu chữ mới mẻ: “em khùng đổ bộ xuống sông/ lời cười ráo hoảnh lấy công làm lời” (em khùng cười); hay: “Tôi ngồi đây được bao giờ/ Bến sông ở đậu ăn nhờ can qua/ bao giờ khóc hết phù sa/ sông đem nước ấy qua nhà trả tôi” (bến sông).
Nhưng ấn tượng hơn cả là hai bài Mẹ Huệ Nam và Bài thất thủ mới. Bài trước tái hiện bằng thơ một lễ nghi nổi tiếng ở Huế gắn liền với điện Hòn Chén. Bài thơ run rẩy nhập đồng, cảm giác cơ hồ bàn tay phù thủy khiến xui đầy biến hóa: “tức trời gió nắng phanh thây/ nồm nam dã dượi ngáp đầy buồng tim/ đàn con hầu Mẹ trốn tìm/ hình vang động bóng nổi chìm trên sông...”, và khổ kết cũng như một hiến tế đọc lên bằng thơ, nhất là câu thứ hai, dễ làm người nghe nổi gai, ớn lạnh trước khi trở về lại với thực tại chang chang nắng lửa, khô khốc đời thường, tưởng chừng không chút tâm linh: “kiệu kèn rước hết một thôi/ mặt sông lỗ chỗ những lời chầu văn/ đàn hồn ở lại khó khăn/ huệ nam trơ một khô cằn là khô”.
Bài thất thủ mới liên tưởng đến Vè thất thủ kinh đô chấn động một thời với bao oan hồn được thờ phụng xưa nay ở Huế, đến hẹn lại lên. Bài thơ rất mực cô đọng, cực ngắn chỉ sáu câu nhưng ngôn từ dồn nén, bí hiểm, thậm chí còn luẩn quẩn vòng quanh mà thi tứ, thi ảnh thì ma mị, liêu trai: “một ngày chạy loạn kinh thiên/ hình nhân thế mạng tô-tem cô hồn/ thần kinh khoai cháo no đòn/ tay không thất thủ không còn tay không/ một đoàn mặt bắt hình dong/ rủ nhau đứng ngọ nhìn vong qua đường”.
Hóa Vàng Đi Tường là một tập thơ mỏng mảnh, vỏn vẹn 23 bài, nhưng lại được vật vã sinh thành từ công phu dụng tâm và dụng ngôn, đầy chiêm nghiệm sau những bước đời phiêu bạt. Thơ mỏng, rất mỏng nhưng không hề nhẹ, trái lại chứa đựng nhiều trọng lượng thi ca và dung lượng tư tưởng, một bứt phá với nhiều sáng tạo, dựng một cột cây số mới trên hành trình thơ Phạm Nguyên Tường. Chất thơ trong tập này vừa cổ điển lại vừa hiện đại, cũng phát tiết nhiều năng lượng tâm hồn âm u, phiền muộn vừa chín tới của một trung niên thi sĩ, nếm trải những phù sinh của những phận người.
bẩm sinh cơn thơ đốt
ngang trời
hóa vàng cả gió…
(Tim có vấn đề)
Chuyện cũng bình thường, bởi người lạc quan nhất phải là người có năng lực nhân tính biết bi quan đúng chỗ. Thơ Tường, vì vậy đã đánh thức những người còn vô tâm, vô tính và hẳn là vắc xin thơ chữa căn bệnh vô cảm nguy hiểm vốn hay lây nhiễm.
Rất có thể tập thơ sẽ có nhiều hồi âm, sẽ gợi thức không ít suy ngẫm đồng cảm và cả những luận bàn, tranh cãi. Nhưng thôi, đó là chuyện của tác phẩm khi bước chân lưu lạc giang hồ. Những bài thơ lúc ấy sẽ quên đi mọi thứ, kể cả tác giả để trở lại với chính mình, bản lai diện mục, rồi lại ngập chìm trong sống, chết, nhớ, quên, buồn, vui... cũng như thân phận con người. Còn thi nhân ở lại hay tiếp tục lên đường thì thơ dường như không báo trước.
Nhưng ở một hay nhiều nơi nào đó, biết đâu vẫn có một đôi người, hoặc nhiều hơn, vẫn lặng lẽ đợi chờ thơ như chờ đợi một người bạn lâu ngày chưa gặp... Được vậy cũng là hạnh phúc cho một đời cầm bút.
P.X.D
(TCSH392/10-2021)
PHAN THUẬN AN"Khóc Bằng phi" hay "Khóc Thị Bằng" là một bài thơ nổi tiếng xưa nay, nhưng tác giả của nó là ai thì chưa được xác minh một cách cụ thể. Người ta thường cho rằng bài thơ trữ tình này là do vua Tự Đức (1848-1883) làm ra để thương tiếc một bà cung phi tên là Thị Bằng còn rất trẻ đẹp nhưng chết sớm.
HÀ VĂN LƯỠNGTrong văn học Nga thế kỷ XX, Aleksandr Solzhenitsyn là một trong những nhà văn lớn, nổi tiếng có nhiều đóng góp cho nền văn học Nga trên nhiều phương diện, một người suốt đời tận tụy và kiên trì đấu tranh cho sự chiến thắng của nghệ thuật, của sự thật đối với những cái xấu, cái ác. Nhưng ông cũng là một nhà văn có cuộc đời đầy thăng trầm, bất hạnh và phức tạp.
BÙI LINH CHIAnnemarie Selinko (1914-1986) là một nhà báo, nhà tiểu thuyết gặt hái được một số thành công trong sự nghiệp tại Tổ quốc của mình là nước Áo. Trong những tháng ngày chạy nạn 1943, bà đã cùng chồng đến Thụy Điển, đã chứng kiến những làn sóng người tị nạn phải rời bỏ quê hương trước ý chí ghê gớm của kẻ độc tài khát máu Himler gây ra.
TRẦN HUYỀN SÂM1. Nobel là một giải thưởng danh giá nhất, nhưng cũng chứa đựng nhiều nghịch lý nhất trong tất cả các giải thưởng. Riêng giải Nobel văn học, bao giờ cũng gây tranh cãi thú vị. Bởi vì, Hội đồng Viện Hàn Lâm Thụy Điển phải trung thành với lời di chúc của Alffred Nobel: trao tặng giải thưởng cho người sáng tạo ra tác phẩm văn học xuất sắc nhất, có khả năng định hướng lý tưởng cho nhân loại.
NGUYỄN THỊ MAI(Nhân đọc tập thơ “Ra ngoài ngàn năm” của nhà thơ Trương Hương - NXB Văn học – 2008)
LÊ HUỲNH LÂMDạo này, thỉnh thoảng tôi nhận được tin nhắn “nhìn đời hiu quạnh”, mà theo lời thầy Chạy đó là câu của anh Định Giang ở Vỹ Dạ mỗi khi ngồi nhâm nhi. Khi mắc việc thì thôi, còn rảnh rang thì tôi đến ngồi lai rai vài ly bia với thầy Chạy và nhìn cổ thành hắt hiu, hoặc nhìn cội bồ đề đơn độc, nhìn một góc phố chiều nguội nắng hay nhìn người qua kẻ lại,… tất cả là để ngắm nhìn cõi lòng đang tan tác.
THU NGUYỆTLTS: Tập truyện Cánh đồng bất tận của nhà văn Nguyễn Ngọc Tư được giới chuyên môn đánh giá cao như một hiện tượng văn học trong thời gian gần đây. Giữa lúc đông đảo bạn đọc đang hứng vị với hiện tượng này thì có một hiện tượng khác “ngược chiều” đã gây sốc dư luận.Để bạn đọc Sông Hương có thêm thông tin, chúng tôi xin trích đăng một số ý kiến sau đây.
HIỀN LƯƠNGVậy là Nguyễn Ngọc Tư sẽ bị kiểm điểm thật. Cầm tờ biên bản của Ban Tuyên giáo tỉnh Cà Mau trên tay, trong tôi trào dâng nhiều cảm xúc: giận, thương, và sau rốt là buồn...
BÙI VIỆT THẮNGTôi có theo dõi “vụ việc Nguyễn Ngọc Tư” đăng tải trên báo Tuổi trẻ (các số 79, 80, và 81 tháng 4 năm 2006) thấy các ý kiến khen chê thật ngược chiều, rôm rả và quyết liệt. Kể ra không có gì lạ trong thời đại thông tin mọi người đều có quyền cập nhật thời sự, nhất là trong lĩnh vực văn chương vốn rất nhạy cảm.
NGUYỄN KHẮC PHÊ“Người kinh đô cũ” (NKĐC - NXB Hội Nhà văn, 2004) là tác phẩm thứ 14 của nhà văn Hà Khánh Linh, cũng là tác phẩm văn học dày dặn nhất trong số tác phẩm văn học của các nhà văn ở Thừa Thiên - Huế sáng tác trong khoảng 20 năm gần đây.
HỒ THẾ HÀ Trong cuộc đời mỗi con người, điều sung sướng nhất là được hiểu biết, khám phá và sáng tạo để ý nghĩa tồn sinh không ngừng được khẳng định và nâng lên những tầm cao mới. Theo đó, những thang bậc của nhận thức, nhân văn, của thành quả lao động lại biến thành những giá trị văn hoá vật thể và phi vật thể lấp lánh lời giải đáp.
TÔ VĨNH HÀNếu có thể có một miền thơ để mà nhớ mong, khắc khoải; tôi tin mình đã tìm được rồi, khi đọc Mưa Kim Cương của nhà thơ Đông Hà (Nxb Thuận Hoá, Huế, tháng 11.2005). Sợi dây mảnh mục như các khớp xương đan chằng, xéo buốt, chơi vơi; được giăng giữa hai bờ lở xói của cuộc đời. Trên cao là “hạt” kim cương thô ráp và gan lỳ hơn cả là đá nữa, nhưng lại giống với thân hình thần Vệ Nữ đang rơi, đang rơi, nhọn sắc, dữ dằn... Minh hoạ ở trang bìa xanh và sâu thẳm như những trang thơ.
TRẦN THANH HÀLGT: Có thể nói rằng, “Tiểu thuyết và tiểu luận về tiểu thuyết của Milan Kundera được xem như là một trong những hiện tượng độc đáo đáng được chú ý trong văn học Châu Âu hiện đại”. Mỗi cuốn tiểu thuyết cô đọng của nhà văn, mang lại cho độc giả một cái nhìn độc đáo về thế giới hiện đại và vị trí con người trong đó, một thứ triết học riêng về cuộc sống và mối quan hệ liên cá nhân, “các chủ đề sắc sảo và các tính cách con người sinh động được kết hợp với những suy tư về các đề tài triết học và hiện sinh mang tính toàn cầu”.
HOÀNG VĂN Đọc Hoang thai ta có thể hình dung ra xã hội Ba Lan đương đại và những vấn đề nẩy sinh trong xã hội này.
NGUYỄN KHẮC PHÊGặp nhà văn - dịch giả Đoàn Tử Huyến - một người “chơi” sách có hạng ở đất Hà Thành - tại nhà sách lớn của Trung tâm văn hoá ngôn ngữ Đông Tây mới khai trương trên khu Cầu Giấy, trước ngày hội thảo về tiểu thuyết “Mẫu Thượng ngàn” của Nguyễn Xuân Khánh, tôi hỏi: “Có đúng là ông đã nói trên một tờ báo rằng “Một tác phẩm kiệt xuất như “Nghệ nhân và Margarita” (NNVM) mà chưa có một nhà phê bình Việt Nam nào sờ đến cả! “Đúng vậy không?” Đoàn Tử Huyến cười nhăn cả mũi: “Thì đúng vậy chứ sao!”
HOÀNG VŨ THUẬT(Đọc Hoạ mi năm ngoái - Thơ Trần Kim Hoa, NXB Văn học, 2006)
LTS: Sông Hương vừa nhận được lá thư của ông Tế Lợi Nguyễn Văn Cừ gửi cho nhà nghiên cứu Phan Thuận An nhằm cung cấp lại bản gốc của bài thơ “Cầu ngói”. Xin nói thêm, ông Nguyễn Văn Cừ là con của ông Nguyễn Văn Lệ, tác giả bài thơ.Sông Hương xin đăng lá thư này để hầu mong rộng đường trao đổi.
HOÀNG VŨ THUẬT(Đọc Ngày không ngờ - thơ Nguyễn Bình An, NXB Thuận Hóa 2007)
VĨNH NGUYÊN(Nhân xem tập thơ Nhật thực của Nhất Lâm, Nxb Thanh Niên, 2008)
NGÔ MINHLTS: Ngày 13-2-2007, Bộ Văn hoá Thông tin đã công bố quyết định của Chủ tịch nước CHXHCN Việt Nam về việc tặng giải thưởng Hồ Chí Minh và giải thưởng nhà nước về văn học nghệ thuật. Nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ được là 1 trong 47 nhà văn được giải thưởng nhà nước với chùm tác phẩm: Đề tặng một giấc mơ (tập thơ 1988), Trái tim sinh nở ( tập thơ - 1974), Bài thơ không năm tháng (tập thơ - 1983). Nhân dịp ngày Quốc tế phụ nữ 8-3, TCSH xin giới thiệu bài viết của nhà thơ Ngô Minh về nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ.