PHẠM XUÂN DŨNG
(Nhân đọc tập thơ “Hóa vàng đi Tường” của Phạm Nguyên Tường, Nxb. Thuận Hóa, 2021)
Tình cờ đọc hai bài thơ của Phạm Nguyên Tường mới đây trên Tạp chí Sông Hương, mượn cách nói của truyện chưởng Kim Dung, tôi nhắn tin cho anh nửa đùa nửa thật: Thơ trường phái cổ mộ! Và như một cơ duyên, tôi được đọc tập thơ mới nhất của Phạm Nguyên Tường trước khi xuất bản thì thấy cảm nhận của mình không đến nỗi vô lý. Một sự trùng hợp ngẫu nhiên chăng, cũng không biết nữa.
Tường vẫn là Tường của gần ba mươi năm trước, khi gây tiếng vang trong sinh viên bằng một giọng thơ lạ: “Thơ đến lúc cũng giở trò bội bạc/ Huống hồ em xa quá triệu tầm tay/ Ta với tới một vì sao đẫm ướt/ Thề không sáng nữa đêm nay...” (Thuở xa em). Nhưng ngay từ buổi đầu hồn nhiên và tươi mới ấy cũng đã báo hiệu một điều gì khác: “Phải chiếc lá vừa rơi xoay theo chiều mộng mị/ trước mặt mình như một quẻ âm dương?” (Đêm một mình). Và hành trình thơ, nhất là đến lúc này đã thực chứng những gì từng là linh cảm. Ngay cả tên tập thơ cũng đa nghĩa và bí hiểm, dù rằng không có bài thơ nào trong tập có tên như vậy và vẫn có cách giải nghĩa nhan đề theo hướng khác. Đây là một câu thơ của anh trong tập. Một tập thơ âm tính!
“Dễ hiểu” nhất trong tập thơ này cũng chỉ vài bài như: Giếng rồng, Chỉ dẫn trên đảo Cồn Cỏ, Đám lá tối trời, cho thấy tác giả vẫn không hề đoạn tuyệt với lối viết trước đây của mình, những bài thơ đã từng được nhiều bạn đọc gần xa yêu mến. Có điều thơ vẫn hay nhưng tiết chế hơn và cũng điềm tĩnh hơn. Bài đầu hai khổ, tám câu và hai câu cuối mỗi khổ đều bất ngờ thi vị: “Nước từng tắm táp tổ tiên/ Vừa từ trăm trứng nở nên đồng bào/ Giếng sâu vọng một âm xao/ Bốn ngàn năm níu dây gàu dưới tay/ Tôi về lạy Tổ chiều nay/ Xin gàu nước tắm về ngày nguyên sơ/ Đồng bào rời rã Âu Cơ/ Tôi còn vỏ trứng bên bờ giếng xưa”. Hay từ chỗ câu trước tả thực như văn nói, câu sau đã mở rộng trường liên tưởng bất ngờ, ưu tư trĩu nặng đến rùng mình: “Bến Nghè xưa “nơi tập kết hàng, vũ khí”/ Nơi nào tập kết máu xương?” (Chỉ dẫn trên đảo Cồn Cỏ).
Nhưng hầu hết những bài thơ trong tập này đều không “dễ hiểu” và thường chứa đựng nhiều ẩn ức ám ảnh, những suy nghiệm của quán chiếu tâm linh thể hiện một sự nỗ lực tìm tòi, khai phá và sáng tạo, tự làm mới mình của Phạm Nguyên Tường. Còn-mất, sống-chết và cả những hóa thân trong cõi phù hư với những “khoảng lặng” đằng sau câu chữ đã xuyên suốt tập thơ. Ngay cả khi đứng trước nơi từng thảm sát ở miền Tây Nam Bộ cũng đã ngậm ngùi hoài cảm về phận số bàn-cờ-người-thế-sự chẳng thể đổi thay trong tiếng vọng của binh đao ngày trước: “Bàn cờ tướng khắc trên sân nhà cũ/ Sắp sửa chìm xuống vàm Khâu Băng/ Những người đánh cờ lo chạy nước/ Cửa biển mênh mông sông hạ thủ bất hoàn.../ Tôi đứng bóng một bàn cờ sạt lở/ Những cồn bãi mất đi những cồn bãi thành hình/ Những người chết đi những người mới sống/ Hạ thủ bất hoàn những con nước phù sinh” (Đứng bóng). Nếu ai biết đánh cờ tướng sẽ thuộc câu cửa miệng của các kỳ thủ: hạ thủ bất hoàn (nước cờ đã đi không thể hồi lại, không thể đổi thay) mới thấy hết trớ trêu, tàn nhẫn và oan khiên trong chinh chiến; nên có những điều thật kinh khủng, dù vô tình hay cố ý trong lịch sử và đời thường đã diễn ra là chẳng thể nào thay đổi, không bao giờ, dù thành tâm đến mấy, một khi đã đi thì như nước cờ kia là: hạ thủ bất hoàn! Để thơ hôm nay đến đây chính ngọ lập đàn tràng.
Ngay bài Một hơi gió cũng có vẻ dễ hiểu nhưng tác giả đưa vào yếu tố lạ như “màu chàm hờn”, “xanh hờn chàm” khiến bức tranh biên viễn Tây Bắc gợi nhớ chuyện đã qua nhiều năm trước về chiến chinh não nề, ai oán. Và câu cuối tưởng nhẹ nhàng nhưng lại dụng điển văn chương: “Tưởng nghìn năm đứng gió/ Nước sông xanh hờn chàm/ Tôi trộn cùng nước ấy/ Một thinh lặng khôn kham”. “Đời nhẹ khôn kham” là một tiểu thuyết của nhà văn Tiệp Khắc Milan Kundera. Hai chữ cuối được hiểu là một mình chịu đựng không nổi, một ý niệm hiện sinh của tiểu thuyết này. Hiển nhiên đó cũng là kết cục tâm trạng thơ đã vượt quá xa ngưỡng an bình.
Phần còn lại là những bài thơ dồn nén, bí ẩn pha sắc màu kinh dị khiến người đọc ngạc nhiên và dẫn dụ họ vào mê lộ. “buốt buốt buốt quay tời/ giờ hành xác về rượt đuổi/ nghi lễ trắng cử hành/ những bông hồn u muội...” (Nghi lễ trắng). Không có cả những dấu câu, những chữ đầu viết hoa, tất cả đều bình đẳng và vừa tách rời vừa dính chặt vào nhau một cách cố ý. Cũng như trong bài Vạn thọ chữ nghĩa cố tình đánh đố khi các từ lên đồng giăng mắc nhau trong cơn hô ứng. Vạn thọ nhưng chắc gì đã không chạm mặt sinh tử có khi tan chảy như một que kem đường phố. Lối viết tự động nhập vào bút pháp tân hình thức:
Dòng người cuộn trôi
từng động cơ gầm rú
đùi cằng mắt kiếng cổ cồn bóng hình “hàng hiệu”
... sống một chiều đi
một chiều mắt
tình một chiều liếm
kem một chiều chết một chiều…
Còn với bài Rượu cúc võ thìn là một khúc thơ tân hình thức miên man dù chỉ gói gọn trong 50 chữ chừng như nhớ thất tuần của người đã khuất, dù rất ngắn, nhưng cũng tràn ngập nỗi niềm và dư âm dư vị.
rượu lúc cúc vàng hơi võ
thìn một thành cổ kiêu bạc
vần vũ tóc không dài hết
tiếng cười khan rũ một chiếu
thơ ngoài giang hồ rượi mấy
manh đời tụ bạ mai mốt
có người về thị xã khóc
giùm mắt rượu một giọt cúc
vàng hoe
Hay trong bài Ẩm mục thác gợi đến linh sơn Bạch Mã thì không chỉ dừng lại ở tân hình thức mà còn toan đưa thơ vào mật thất bất khả tri với những ký hiệu ngữ nghĩa tối giản và nhiều khi tối om, cố tình chặt bớt nhiều đoạn dây liên tưởng trong tư duy thông thường, đưa người đọc vào một cuộc phiêu lưu bí hiểm và mạo hiểm. Ám ảnh về sự chết cũng tối mờ trong bóng-đêm-thơ. Nhưng chết không phải là dấu chấm hết, mà có thể đó bắt đầu cho một sự tái sinh. Nhưng đó cũng chỉ là cảm nhận mơ hồ và phán đoán...
Tiếng hát ma mị của hoa đỗ quyên
dẫn dụ thác
trườn thân rắn trò tiêu khiển con tin
mạo hiểm trò cô độc
thác đổ thác về
con tin ẩn cư tự nguyện
chôn chặt mắt người
vùng đệm thực bì ẩm chuyện
thác ẩn cư tự nguyện
vầng trán thanh xuân người
cách nào nhận biết
mùi lớp lớp chết sinh sôi
...
Xin dừng lại một chút ở thơ lục bát Phạm Nguyên Tường. Anh vốn sở trường và thành danh với thể thơ tự do nhưng ở tập thơ này lại xuất hiện một người thơ sáu-tám có nhiều mới lạ. Chưa kể một vài câu lục bát xen lẫn trong các bài thơ tự do, thuần lục bát có đến sáu bài. Nếu thơ lục bát với ràng buộc khúc thức dễ làm, khó hay thì ở tập thơ này cảm giác thi nhân đã vượt qua được lực hút của gia tốc trọng trường thể thơ truyền thống. Nó không thể làm khó anh mà trái lại, anh đã làm chủ, tạo nên giọng điệu riêng cho mình, cả trong lục bát (giếng rồng, em khùng cười, Ngư Mỹ Thạnh, Mẹ Huệ Nam, Bến sông, Bài thất thủ mới). Không hiếm những câu thơ khá lạ, hay và bất ngờ: “Mặt người chìm lên gió mưa/ Người đầm hoang tiếng chuông chùa co ro”; hay: “Người tanh tiếng thở muôn trùng/ Dựa lưng cô miếu thờ chung một đầm” (Ngư Mỹ Thạnh); hoặc giọng thơ mềm mại ca dao nhưng ý tứ, câu chữ mới mẻ: “em khùng đổ bộ xuống sông/ lời cười ráo hoảnh lấy công làm lời” (em khùng cười); hay: “Tôi ngồi đây được bao giờ/ Bến sông ở đậu ăn nhờ can qua/ bao giờ khóc hết phù sa/ sông đem nước ấy qua nhà trả tôi” (bến sông).
Nhưng ấn tượng hơn cả là hai bài Mẹ Huệ Nam và Bài thất thủ mới. Bài trước tái hiện bằng thơ một lễ nghi nổi tiếng ở Huế gắn liền với điện Hòn Chén. Bài thơ run rẩy nhập đồng, cảm giác cơ hồ bàn tay phù thủy khiến xui đầy biến hóa: “tức trời gió nắng phanh thây/ nồm nam dã dượi ngáp đầy buồng tim/ đàn con hầu Mẹ trốn tìm/ hình vang động bóng nổi chìm trên sông...”, và khổ kết cũng như một hiến tế đọc lên bằng thơ, nhất là câu thứ hai, dễ làm người nghe nổi gai, ớn lạnh trước khi trở về lại với thực tại chang chang nắng lửa, khô khốc đời thường, tưởng chừng không chút tâm linh: “kiệu kèn rước hết một thôi/ mặt sông lỗ chỗ những lời chầu văn/ đàn hồn ở lại khó khăn/ huệ nam trơ một khô cằn là khô”.
Bài thất thủ mới liên tưởng đến Vè thất thủ kinh đô chấn động một thời với bao oan hồn được thờ phụng xưa nay ở Huế, đến hẹn lại lên. Bài thơ rất mực cô đọng, cực ngắn chỉ sáu câu nhưng ngôn từ dồn nén, bí hiểm, thậm chí còn luẩn quẩn vòng quanh mà thi tứ, thi ảnh thì ma mị, liêu trai: “một ngày chạy loạn kinh thiên/ hình nhân thế mạng tô-tem cô hồn/ thần kinh khoai cháo no đòn/ tay không thất thủ không còn tay không/ một đoàn mặt bắt hình dong/ rủ nhau đứng ngọ nhìn vong qua đường”.
Hóa Vàng Đi Tường là một tập thơ mỏng mảnh, vỏn vẹn 23 bài, nhưng lại được vật vã sinh thành từ công phu dụng tâm và dụng ngôn, đầy chiêm nghiệm sau những bước đời phiêu bạt. Thơ mỏng, rất mỏng nhưng không hề nhẹ, trái lại chứa đựng nhiều trọng lượng thi ca và dung lượng tư tưởng, một bứt phá với nhiều sáng tạo, dựng một cột cây số mới trên hành trình thơ Phạm Nguyên Tường. Chất thơ trong tập này vừa cổ điển lại vừa hiện đại, cũng phát tiết nhiều năng lượng tâm hồn âm u, phiền muộn vừa chín tới của một trung niên thi sĩ, nếm trải những phù sinh của những phận người.
bẩm sinh cơn thơ đốt
ngang trời
hóa vàng cả gió…
(Tim có vấn đề)
Chuyện cũng bình thường, bởi người lạc quan nhất phải là người có năng lực nhân tính biết bi quan đúng chỗ. Thơ Tường, vì vậy đã đánh thức những người còn vô tâm, vô tính và hẳn là vắc xin thơ chữa căn bệnh vô cảm nguy hiểm vốn hay lây nhiễm.
Rất có thể tập thơ sẽ có nhiều hồi âm, sẽ gợi thức không ít suy ngẫm đồng cảm và cả những luận bàn, tranh cãi. Nhưng thôi, đó là chuyện của tác phẩm khi bước chân lưu lạc giang hồ. Những bài thơ lúc ấy sẽ quên đi mọi thứ, kể cả tác giả để trở lại với chính mình, bản lai diện mục, rồi lại ngập chìm trong sống, chết, nhớ, quên, buồn, vui... cũng như thân phận con người. Còn thi nhân ở lại hay tiếp tục lên đường thì thơ dường như không báo trước.
Nhưng ở một hay nhiều nơi nào đó, biết đâu vẫn có một đôi người, hoặc nhiều hơn, vẫn lặng lẽ đợi chờ thơ như chờ đợi một người bạn lâu ngày chưa gặp... Được vậy cũng là hạnh phúc cho một đời cầm bút.
P.X.D
(TCSH392/10-2021)
PHẠM XUÂN NGUYÊNCùng một kiếp bên trời lận đận (Bạch Cư Dị - Tỳ bà hành)Nhà văn Bùi Ngọc Tấn vừa cho ra mắt tác phẩm Rừng xưa xanh lá (Mười chân dung văn nghệ sĩ) tại Nhà xuất bản Hải Phòng (1/2003).
TÔ VĨNH HÀNhững trang viết sau cùng của một con người luôn luôn là điều thiêng liêng và không bao giờ hết bí ẩn. Vì sao lại dùng từ ấy chứ không phải là chữ kia; đề cập đến cái này chứ không phải là cái khác..? Rất nhiều câu hỏi sẽ đến với người đọc khi trước mắt ta là những ý tưởng hiện hữu sau cùng của một đời người - đặc biệt ở con người vĩ đại như Chủ tịch Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh là cái tên mà mỗi người Việt lúc đọc hay nói, không chỉ diễn đạt một quan niệm gần như vô hạn của nhận thức, mà hơn nhiều thế nữa - là âm sắc tuyệt vời của sự kết tụ những tinh hoa quý giá nhất của trái tim mình.
NGUYỄN TỐNGQuê hương đất nước và con người luôn có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ, tác động qua lại lẫn nhau trong suốt chiều dày của lịch sử dựng nước và giữ nước. Nó tự nhiên chan hoà đến mức như cá bơi quẫy giữa đại dương, chim tung cánh vô tư giữa bầu trời bát ngát. Đến lúc nào đó, khi con người rơi vào cảnh cá chậu chim lồng, tình cảm, ý thức về đất nước thiêng liêng mới trở nên ám ảnh day dứt.
NGUYỄN KHẮC PHÊ (Đọc “Thân Trọng Một – con người huyền thoại” của Nguyễn Quang Hà)Đã từ lâu, tên tuổi anh hùng Thân Trọng Một trở nên thân quen với mọi người, nhất là với quân dân Thừa Thiên Huế; những “sự tích” về ông đã thành truyện “truyền kỳ” trong dân chúng và đã được giới thiệu trên nhiều sách báo. Tuy vậy, với “THÂN TRỌNG MỘT – CON NGƯỜI HUYỀN THOẠI”, lần đầu tiên, chân dung và những chiến công của ông đã được tái hiện một cách đầy đủ và sinh động nhất.
Nhà văn Nguyễn Quang Hà tâm sự với tôi rằng anh có hai món nợ rất lớn mà chắc đến khi nhắm mắt xuôi tay cũng không thể nào trả xong. Hai món nợ mà anh đang gánh trên đôi vai của mình là món nợ đối với nhân dân và món nợ đối với đồng đội. Gần bốn mươi năm cầm bút, anh đã viết 9 tập tiểu thuyết; 7 tập truyện ngắn, ký, truyện ký; 2 tập thơ cùng với hàng trăm bài báo cũng chỉ mong sao trả được hai món nợ ấy.
XUÂN CANGNhờ cuốn hồi ký nhỏ Ngày ấy Trường Sơn (Nxb Hội Nhà văn - Hà Nội - 2000) của Nguyễn Khoa Như Ý- tên khai sinh của Hà Khánh Linh, bạn đọc được biết đây là một nhà văn nữ có khí chất không bình thường. Một người con gái mảnh dẻ, nhưng có chí, mơ mộng, ham hành động, vì nghĩa lớn mà dấn thân vào nơi nguy hiểm.
Sau Vị giáo sư và ẩn sĩ đường, Ba lần đến nước Mỹ, trong năm 2002, GS. Hà Minh Đức tiếp tục ra mắt bạn đọc tác phẩm Tản mạn đầu ô. Vậy là trong khoảng 5 năm, bên cạnh một khối lượng lớn những tác phẩm nghiên cứu, lý luận, phê bình, ông đã sáng tác 3 tập thơ và 3 tập bút ký. Đó là những con số mang nhiều ý nghĩa thể hiện sự "đa năng" của một đời văn tưởng đã yên vị với nhiều danh hiệu cao quý và hơn 30 tập sách nghiên cứu, lý luận, phê bình. Tản mạn đầu ô ra đời được dư luận chú ý, quan tâm. Sau đây là cuộc trao đổi giữa PGS. TS Lý Hoài Thu với GS. Hà Minh Đức xung quanh tập sách này.
HUỲNH HẠ NGUYÊN (Đọc tập thơ "Khúc đêm" của Châu Thu Hà - Nxb Thuận Hoá - 11/2002)...Thơ Châu Thu Hà mang đậm nữ tính. Khi trái tim biết cười, hay khi giàn giụa nước mắt, ta bỗng thấy quý sao những phút sống chân thành với cuộc đời, với mọi người. Châu Thu Hà không để trái tim mình tuột xuống phía bên kia triền dốc, chị cố bước tới và neo lại, để thấy mình được xẻ chia, được yêu chiều, xoa dịu...
LÊ MỸ Ý (L.M.Y): Thưa nhà thơ, là một người có thể tạm gọi là thuộc thế hệ đi trước nhưng lại luôn "gây sốc" bằng những tác phẩm tìm tòi mới, chắc hẳn ông có quan tâm nhiều đến thế hệ thơ trẻ? Có thể có một nhận xét chung về thơ trẻ hiện nay chăng?NHÀ THƠ HOÀNG HƯNG (H.H): Tất nhiên là tôi rất quan tâm. Nhận xét chung của tôi về thơ trẻ bây giờ là đa số vẫn mang tính phong trào. Có thể nói là những người làm thơ trẻ vẫn đi theo một vết mòn của thế hệ trước, chưa thấy rõ những bứt phá, chỉ nổi lên một số tác giả theo cách lẻ tẻ.
Tại sao cô chỉ làm thơ tự do?- Trước hết, bởi tôi thích tự do. Tự do ở đây, được hiểu là: nói, làm, dám mơ ước và tham vọng tất cả những gì mình muốn, không bị tác động và chi phối bởi ai, bởi bất cứ điều gì.
NGUYỄN THỤY KHA Đã là lạ tên một tác phẩm khí nhạc mang tực đề "Eo lưng" của nữ nhạc sĩ Kim Ngọc. Lại thu thú khi đọc tập thơ "Nằm nghiêng" của nữ thi sĩ Phan Huyền Thư. Một thế kỷ giải phóng của Việt Nam thật đáng kính ngạc.Cái cách giải phóng mình, phái yếu trong đó có mình của Phan Huyền Thư là sự độ lượng với cũ kỹ, là mỉa mai sự nửa vời, là quyết liệt lặng lẽ vươn tới cách tân theo một thế của “Nằm nghiêng”.
NGUYỄN TRỌNG TẠOCòn nhớ mùa Huế mưa 1992, Nguyễn Khắc Thạch và Ngô Minh đến nhà tôi chơi, mang theo bản thảo đánh máy tập thơ đầu tay của một tác giả mới 20 tuổi có tên là Văn Cầm Hải. Một cái tên lạ mà tôi chưa nghe bao giờ. Những bài thơ của anh cũng chưa hề xuất hiện trên mặt báo. Nguyễn Khắc Thạch và Ngô Minh đều nói rằng; "Thơ tay này lạ lắm. Ông xem thử".
NGUYỄN QUANG HÀNgồi đọc NGÀN NĂM SAU mà như đang ngồi nói chuyện tay đôi với Nguyễn Trọng Bính. Giọng thơ anh cũng cứ chân chất, yêu quê hương và say đời như chính con người anh. Từ thời chiến tranh, chúng tôi đã ở trong rừng với nhau. Cứ ngồi với nhau là bộc bạch hết. Một lá thư riêng, một rung động mới, chúng tôi cũng chia sẻ với nhau.
PHAN THÀNH MINHĐó cũng là tựa đề tập thơ rất dễ thương của Trần Tịnh Yên - nhà thơ của đất kinh kỳ thơ mộng thuở nào - thú thật là tôi đã vô cùng hạnh phúc khi nhận được tập thơ này do chính tác giả gởi tặng, dễ thương ở chỗ khổ giấy nhỏ nhắn, trình bày đẹp trang nhã, sách 80 trang với 46 bài thơ cũng mỏng mảnh như thế nhưng nhìn rất thơ, càng thơ hơn nữa khi chính tác giả tự viết lời phi lộ cho mình, tôi rất hợp với anh ở điểm này bởi lẽ chẳng ai có thể thay thế cho mình bằng mình để nói hộ những gì mình muốn nói...:...năm xưa qua ngõ sân đìnhcó người nhặt được mối tình ai rơi
NAM NGỌC (Về tập truyện ngắn mới nhất của nhà văn Võ Thị Xuân Hà do Công ty Truyền thông Hà Thế liên kết NXB Phụ nữ xuất bản và phát hành quý I năm 2009)Tập truyện gồm 14 truyện ngắn, với những mô típ khác nhau nhưng cùng chung gam màu thấm đẫm chất liệu hiện thực. Tất cả đã tạo nên một chỉnh thể thống nhất mà ở đó các nhân vật dù xấu dù tốt cũng đều hướng tới cái đẹp, cái nhân bản của con người. Cách viết truyện lạ cùng với những chi tiết, tình tiết được lắp ghép một cách khéo léo, Võ Thị Xuân Hà đã một lần nữa gây ngạc nhiên cho người đọc bằng bút pháp ẩn không gian đa chiều của mình.
BÍCH THUHơn một thập niên trước đây, với hai truyện ngắn Hồi ức của một binh nhì và Vết thương lòng, Nguyễn Thế Tường đã đoạt giải cao trong cuộc thi truyện ngắn do Tạp chí Văn nghệ quân đội tổ chức năm 1992 - 1994. Tôi còn nhớ một trong số các nhà phê bình đã thành danh của nhà số 4 Lý Nam Đế không kìm được cảm xúc của mình với chùm truyện dự thi của Nguyễn Thế Tường lúc ấy đã thốt lên: “Tôi thích truyện ngắn Nguyễn Thế Tường”. Từ đó đến nay, Nguyễn Thế Tường vẫn miệt mài viết và lặng lẽ ra sách. Người đàn bà không hoá đá là lần ra mắt thứ năm của anh.
HOÀNG VŨ THUẬT (Đọc “Trăng đợi trước thềm”, thơ Hải Bằng, NXB Thuận Hoá - 1987)Đổi mới là trách nhiệm vừa là bổn phận đang diễn ra sôi động trong đời sống văn học hôm nay. Nhưng ranh giới giữa cũ và mới không dễ dàng phân định khi đánh giá một tác phẩm văn chương nghệ thuật.
ĐINH NAM KHƯƠNG (Nhân đọc “ru em ru tôi” Thơ Trương Vĩnh Tuấn NXB: Hội nhà văn - 2003)Có một nhà thơ nổi danh thi sĩ, làm “quan” khá to ở báo văn nghệ. Nhưng chẳng bao giờ thấy ông vỗ ngực, ngạo mạn nói lời: “ta là quan đây” mà ông luôn dân giã tự gọi mình là hắn, xưng hô với bạn bè là mày tao: “...Hình như hắn là nhà quê Hình như hắn từ quê ra...” (Gốc)
NGÔ MINHKhông thể đếm là tập thơ đầu tay của cây bút nữ Nguyễn Thị Thái người Huế, sống ở thành phố Buôn Ma Thuột vừa được NXB Thuận Hóa ấn hành. Tôi đã đọc một mạch hết tập thơ với tâm trạng phấn khích. Tập thơ có nhiều bài thơ hay, có nhiều câu thơ và thi ảnh lạ làm phấn chấn người đọc.
MINH KHÔICuối tháng bảy vừa qua, giáo sư ngôn ngữ và văn chương Wayne S.Karlin và nữ phóng viên Valerie, công tác ở một Đài phát thanh thuộc bang Maryland, Mỹ đã đến Huế tìm thăm nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ, để chuyển cho chị bản hợp đồng in ấn và phát hành tập thơ Green Rice (Cốm Non) do cơ quan xuất bản gửi từ Mỹ sang.