Họa sĩ Phạm Đăng Trí

16:38 21/03/2011
LÊ VĂN THUYÊNThuộc lớp họa sĩ được đào tạo cuối cùng ở trường Mỹ thuật Đông Dương, nhưng họa sĩ Phạm Đăng Trí đã đi vào con đường hoạt động nghệ thuật chủ yếu là bằng cái vốn tự học tập, tự tìm tòi và nghiên cứu riêng của mình.

Họa sĩ Phạm Đăng Trí - Ảnh: mythuat360.com

Điều ấy không chỉ chứng tỏ đức tính hiếu học, lòng say mê tri thức mà còn thể hiện khát vọng sâu xa của họa sĩ để chọn cho mình một lối đi riêng trong nghề nghiệp, như họa sĩ vẫn thường tâm sự “sợ đi theo con đường mòn người khác đã đi”.

Ước mong chủ quan là như thế. Song “con đường riêng” ấy không phải là đã được định hình ngay từ những tác phẩm đầu tiên của họa sĩ ra đời trước Cách mạng tháng Tám như “Bờ hồ”, “Ngoại ô huyền diệu” v.v… được vẽ trên giấy dó (thiếp bạc và tô điệp). Phải đợi đến “Người suối bạc” (giấy dó, thiếp bạc, tô điệp) ra mắt năm 1946 tại phòng triển lãm đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ở thủ đô Hà Nội, ta mới thấy rõ khuynh hướng cách tân của họa sĩ về màu sắc và hình thức thể hiện. Với phương thức hòa màu trong thị giác (mélange optique) và phối sắc giữa màu trứng sáo và hổ phách) bức tranh cho thấy tác giả đã vận dụng khá thành công vốn nghệ thuật dân gian ở miền Bắc cũng như của Huế.

Thiếu nữ - bột màu Phạm Đăng Trí


Ngay từ lúc còn học ở trường Mỹ thuật Đông Dương, họa sĩ đã chú ý nghiên cứu nghệ thuật tranh làng Hồ và tranh Hàng Trống, đặc biệt là nghiên cứu vốn nghệ thuật truyền thống của Huế, nhất là mảng màu sắc Huế. Sinh ra và lớn lên trên đất Huế, họa sĩ Phạm Đăng Trí yêu say sưa màu sắc Huế như yêu quê hương của mình vậy. “Những hợp sắc tương phản của Huế thuở trước và “đĩa màu ngũ sắc Huế” ngày nay (*) là những suy nghĩ, tìm tòi của họa sĩ từ mấy chục năm nay và đã được họa sĩ vận dụng thành công trong các tác phẩm vẽ trên lụa như: Hội đêm (1982), Mẫu đơn Trang (1983), Múa đèn (1984) và Múa kiếm (1984). Những tác phẩm này đánh dấu một giai đoạn sáng tác mới của họa sĩ Phạm Đăng Trí: vẽ những đề tài thiết thân, quen thuộc của Huế bằng hình thức vận dụng “đĩa màu ngũ sắc Huế”. Ở những bức tranh này, gam màu xanh lam, hỏa hoàng và màu trắng của điệp thường được họa sĩ dùng làm hòa sắc chủ đạo và thường được giải quyết theo phương thức hài hòa tương phản giữa những cặp màu: Đỏ và xanh lục, lục và tím đỏ, xanh và cam vàng, tím và vàng lục, vàng và tím xanh. Bảng màu nghệ thuật của họa sĩ Phạm Đăng Trí thường phong phú, đa dạng và biến dị. Trong hội họa, vấn đề quan trọng là hìnhmàu, họa sĩ thường nhấn mạnh điều ấy. Bảng màu của họa sĩ được nghiên cứu rất công phu và sự chuyển dịch giữa các màu bao giờ cũng tạo một sự biến dị đến thích thú. Đặc điểm nghệ thuật ấy gần như một bút pháp quen thuộc được lập lại trong nhiều tác phẩm của họa sĩ. Sự tương quan giữa hình và màu trong sáng tác của họa sĩ cũng là một đặc điểm đáng chú ý: Hình quy định tính chất của màu sắc và màu sắc càng làm cho hình thể hiện rõ hơn chủ đề của tác phẩm (Múa đèn, Múa kiếm).

Lăng Tự Đức - sơn dầu Phạm Đăng Trí


Trong quá trình xây dựng một tác phẩm ngoài việc sửa chữa nhiều lần phác thảo bố cục, coi quáu phương pháp dựng hình sắp xếp các mảng v.v… họa sĩ rất cân nhắc, thận trọng khi đưa một màu sắc vào bức tranh. Làm thế nào thể hiện được hai yếu tố dân tộc - hiện đại trong tác phẩm luôn luôn là nỗi băn khoăn, day dứt của họa sĩ. Nghệ thuật là phải cách tân. Song nghệ thuật không bao giờ đứt đoạn với truyền thống, như con sông không thể cắt đứt với nguồn của nó. Dân tộc và hiện đại, truyền thống và cách tân phải được quán triệt trong suốt quá trình sáng tạo tác phẩm ở cả hai mặt nội dung và hình thức. Mỗi một tác phẩm ra đời, họa sĩ đều đặc biệt quan tâm xem xét mối quan hệ biện chứng giữa các yếu tố đó, song họa sĩ vẫn tự cảm thấy chưa hài lòng bởi nghệ thuật là một con đường dài và vấn đề cách tân trong nghệ thuật là không bao giờ chấm dứt.

Hài sen - sơn dầu Phạm Đăng Trí


Mỗi một nghệ sĩ sáng tác thường tự chọn cho mình một mảng đề tài thích hợp. Họa sĩ Phạm Đăng Trí cũng thế, Huế là đề tài quen thuộc trong sáng tác của họa sĩ những năm gần đây. Nói cách khác, họa sĩ vừa thích vẽ nhiều về phong cảnh, con người và những sinh hoạt của Huế hiện nay, vừa khai thác cái vốn truyền thống của Huế trong y phục, kiến trúc, trang trí, vũ đạo v.v… Được hỏi về “những đề tài mũi nhọn”, họa sĩ vui vẻ cho rằng, trong sáng tác nghệ thuật hầu như có sự phân công xã hội, không vẽ được những “đề tài lớn”, thì cứ vẽ những đề tài thân quen, gần gũi mà bản thân mình đã từng sống qua tình cảm mình đã từng gắn bó, ấp ủ. Cứ thế mà sáng tác, mà bày tỏ tấm lòng ưu ái của mình đối với cuộc đời, đối với chế độ. Vẽ cái tốt, để ca ngợi. Và vẽ cả cái xấu, để lên án. Thế cũng là tốt, chứ sao.

Họa sĩ vẫn thường nhắc lại một điều tâm đắc, rằng trong sáng tác nghệ thuật, ngoài tài năng ra, không ai không chân thành và sáng tạo mà lại có được tác phẩm tốt, dù vẽ bất cứ đề tài gì.

L.V.T.
(13/6-85)


--------------------
(*) Đầu đề một bài nghiên cứu của họa sĩ Phạm Đăng Trí đăng trên NCNT số 2-1984






Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • HOÀNG DIỆP LẠC

    Bước vào văn đàn bằng tập truyện ngắn với những ám tưởng về màu đỏ của máu, tiếp theo là âm thanh tiếng reo của lửa trong tập truyện ngắn thứ hai, Lê Minh Phong đã phần nào khẳng định được tâm thế sáng tác trước mịt mù cơn lốc thông tin.

  • ĐẶNG MẬU TỰU 

    Khi còn là thủ phủ xứ Đàng Trong của các Chúa Nguyễn và các triều Vua nhà Nguyễn sau này, Huế đã huy động, thu hút những tinh hoa từ Bắc chí Nam về để phục vụ cho triều đình cũng như để phô diễn tài nghệ của mình.

  • NGUYỄN QUANG HÀ

    Tranh của họa sĩ Trương Bé chưa nhiều. Sau hai mươi năm kể từ khi tốt nghiệp trường Cao đẳng Mỹ thuật Hà Nội, số tranh anh vẽ khoảng chừng hai chục bức. Nhưng người xem tranh luôn luôn bị đột ngột về bước đi của anh.

  • LÊ HUỲNH LÂM  

    Bước vào nghệ thuật tạo hình ở tuổi bốn mươi, tuổi bước qua ngưỡng thanh xuân để trở về với chiêm nghiệm và tĩnh lặng, Điềm Phùng Thị đã khiến giới tạo hình thế giới phải quay đầu dừng lại, người xem như bị thôi miên bởi tác phẩm của bà.

  • NGUYỄN XUÂN HOA

    Năm 1973, ở quán cà phê ông Thân sát Tôn Nhân Phủ - chiếc quán nghèo gần như để dành riêng cho sinh viên hai trường Cao đẳng Mỹ thuật, Quốc gia Âm nhạc, giới nhạc sĩ, họa sĩ và những người yêu thích nghệ thuật ở Huế - lẫn trong những khuôn mặt quen thuộc, có một khuôn mặt lạ, say sưa nói về ước vọng của đời mình "sống chết cũng làm cho được mười tượng danh nhân tầm cỡ của Việt Nam", "mỗi bức tượng phải là một khuôn mặt rất đặc trưng của danh nhân".

  • Những cuộc “về lại”

    HỒ ĐĂNG THANH NGỌC

  • TRẦN PHƯƠNG KỲ

    Níu vai phố rộng xin về.
    Với cây lá trút với hè nắng rung

                          BÙI GIÁNG

  • Tôn Nữ Kim Phượng sinh năm 1941 tại Phú Cát, Huế. Tốt nghiệp khóa 2 Cao Đẳng Mỹ Thuật - Huế (1958 - 1962). Huy chương Danh dự do Viện Đại Học Huế trao tặng (1959). Chị mất ngày 25 tháng 8 năm 2000 tại Huế, thọ 60 tuổi. Gia đình gồm 8 anh chị em. Phượng là con gái út sau này đi tu là Thích Nữ Diệu Trang, pháp danh Nguyên Nghi. Thân sinh là ông Bửu Hộ. Thân mẫu là bà Đặng Thị Lý Vinh. Hiện nay bà chị đầu Tôn Nữ Túy Nhạn đang trông coi một ngôi chùa Việt Nam ở Connecticut, gần New York - Hoa Kỳ.

  • LÊ HUỲNH LÂM

    Ký ức là khoảng không gian của quá khứ, là phạm trù thuộc về cái đã qua. Nhưng chính ký ức sẽ báo hiệu một điều gì sắp đến, có thể là cơn bão tương lai, một trận đại hồng thủy hay một sự tan biến vào hư không. Cũng như những giấc mơ trong cuộc đời, dù đã thuộc vào quá khứ, nhưng nó lại hàm ngụ dự báo cho một tương lai vui buồn. Tất cả không nằm ngoài những mắt xích nhân quả.

  • LGT: Điềm Phùng Thị tên thật là Phùng Thị Cúc. Sinh năm 1920, tại miền Trung. Hồi còn nhỏ học ở Huế và Hà Nội. Tốt nghiệp bác sĩ giải phẫu nha khoa tại Đại học Y khoa Paris (Pháp). Học điêu khắc từ 1959 - 1963.

  • LÊ HUỲNH LÂM

    Trong lịch sử phát triển của loài người, có sự đóng góp không nhỏ của loài ngựa. Ngựa là con vật chuyên chở mọi thứ của con người trên con đường tìm kiếm giấc mơ thần thoại của mình.

  • Trong kho tàng di sản vật thể và phi vật thể mà triều đình nhà Nguyễn để lại, tranh gương là một dạng di sản khá đặc biệt, vừa mang tính vật thể, lại vừa phi vật thể và được đánh giá là loại hình mỹ thuật mang bản sắc riêng của Huế bởi xuất xứ, cách thể hiện cùng chất liệu độc đáo của chúng. Có giá trị về mặt mỹ thuật cũng như lịch sử, thế nhưng hiện nay, di sản này đang đối mặt với nguy cơ thất truyền khi số lượng tranh hư hỏng rất lớn mà việc phục hồi lại gặp nhiều khó khăn. 

  • HUỲNH HỮU ỦY

    Rồng là một hình tượng hết sức phổ biến, đặc biệt gắn liền với Lân, Qui, Phượng trong đồ hình tứ linh trong nghệ thuật trang trí cổ.

  • VIỄN PHƯƠNG

    Đối với Kandinxky thì hội họa là sản phẩm của một sự căng thẳng trong nội tâm, phải ghi lại trạng thái tâm hồn chứ không phải là thể hiện vật thể.

  • VŨ TRƯỜNG GIANG  

    Ở gần cửa chánh Tây, ngày ngày người ta nghe thấy những nhát đục rộn ràng, khắc khoải len vào trong từng vỉa gạch âm thầm qua năm tháng. Người ta có thể đón một bình minh với những tiếng đục khoan thai chào ngày mới hay một đêm thâu văng vẳng tiếng chạm trên những thớ gỗ vô hình lẩn sâu trong trí tưởng.

  • ĐẶNG MẬU TỰU

    Có những dự định rồi lần lữa mãi không thành. Có những việc tình cờ mà thành. Chuyện ảnh Nude của nhà nhiếp ảnh Nghệ thuật Thái Phiên tiếng tăm lừng lẫy, ra sách ảnh và trên mạng cũng đã quen với các tác phẩm của ông.

  • TRẦN LÂM BIỀN

    "Mỹ thuật thế kỷ 19 ở Việt Nam là lai căng"?! Là sản phẩm của một triều đại phản động. "Trang trí Nguyễn là vênh váo"?! Là nghệ thuật cung đình xa cách nhân dân...!?

  • VIỄN PHƯƠNG

    (Về không gian hội họa Festival Huế 2012)
     

  • BỬU Ý “Cô gái Việt Nam”, tác phẩm điêu khắc tuyệt mỹ của Lê Thành Nhơn, có mặt tại Huế, dựng ở công viên trước mặt trường nữ lớn nhất ở đây: Trường THPT Hai Bà Trưng, trước đây là Trường Đồng Khánh, ngày 30-04-2011.