Họa sĩ Bửu Chỉ

10:44 10/02/2011
NGUYỄN HỮU NGÔKhu nhà máy bên kia sông tràn đầy sức sống giữa một bầu trời êm ả. Những bông cỏ chen nhau vươn lên… và bỗng nhiên một cánh chuồn chuồn đỏ thắm đáp xuống - một chi tiết thật bất ngờ và thú vị. Toàn thể bức tranh tỏa ra ánh dịu dàng của một buổi sáng mùa xuân.

Bửu Chỉ tự họa

Bức tranh còn nằm trên giá, trong căn phòng nhỏ có cửa sổ ngó ra vườn xưởng vẽ của họa sĩ Bửu Chỉ, vừa là phòng ăn, phòng ngủ, vừa là phòng “triển lãm” những tác phẩm mới nhất.

Khi còn là sinh viên luật khoa của đại học Huế, Bửu Chỉ đã nổi tiếng vì những tranh vẽ bằng bút sắt trong các tập văn thơ tranh đấu của Hội sinh viên sáng tác phát hành vào những năm chống Mỹ. Các tạp chí xuất bản ở nước ngoài như Liên Hiệp (Paris), Thế hệ (Canada), Hòn Kẽm (Stuttgart, Tây Đức)… đều có tranh của Bửu Chỉ. Điều này, vào thời kỳ đất nước còn bị chia cắt, còn bị chiến tranh tàn phá, đối với chúng tôi không chỉ là những thông tin về cuộc đấu tranh của đồng bào và anh em bè bạn ở một vùng còn bị giặc chiếm mà còn là lời nhắn gọi tiếp sức cho nhau, gây cho chúng tôi những hưng phấn mạnh mẽ. Những cánh tay giơ lên đập xích xiềng nô lệ. Cánh chim câu in trên khuôn ngực người thanh niên đang dang tay ôm lấy mặt trời… Mỗi một hình ảnh, mỗi một nét vẽ là lời kêu gọi, là nỗi giục giã, là tiếng kêu khát vọng của con người. Tranh của anh là một thách đố thực sự trước bạo lực của chế độ Mỹ ngụy. Năm 1972, anh bị bắt cùng với nhóm bạn bè tranh đấu ở Huế. Bị đưa ra xử trong phiên tòa quân sự đặc biệt tại Sài Gòn (gọi là Tòa án Mặt trận vùng 3 chiến thuật), để trả lời những lý lẽ buộc tội kiểu phát xít của chúng, anh đã khẳng định sự lựa chọn của anh: “Chỉ bằng những hành động dấn thân xã hội, con người mới thật sự trưởng thành”, rồi thản nhiên nhận bản án 5 năm tù. Ngày 30-4-1975, ngày đại thắng của dân tộc, cũng là ngày anh được giải phóng ra khỏi trại giam Chí Hòa, một địa ngục trần gian khét tiếng của chế độ Mỹ ngụy.

Tĩnh vật - sơn dầu


Huế vào những năm sau 75…

Cũng như nhiều thành phố khác trên đất nước này, Huế đã lớn lên với thật nhiều trăn trở. Với tâm hồn nhạy cảm của một nghệ sĩ, một trái tim nhiều ưu tư của người trí thức, Bửu Chỉ có một thời rất trầm lặng. Tác phẩm của anh vào cuối những năm 70, hầu hết đều vẽ về quê hương. Một quê hương được nhìn từ một góc độ yên tĩnh lạ lùng. Ở đó có bức thành cổ rêu phong, có ngựa đá cỏ mọc, có bình hoa hải đường trong căn nhà thâm u… Đó là một thế giới nhuốm chất hoài niệm, bàng bạc những nỗi niềm, và khát khao được bày tỏ. Có người bảo tranh anh hàm chứa nhiều yếu tố nghịch lý, và ẩn dụ nữa. Và vì vậy, qua tranh, anh muốn đặt vấn đề về cuộc sống, và muốn tạo đối thoại với cuộc sống…

Tại cuộc triển lãm Mỹ thuật toàn quốc 1980, với “Tĩnh vật và chim”, tác phẩm sơn dầu kích thước 1m x 1m20, Bửu Chỉ đã gây được sự bất ngờ và thích thú cho người xem. Không khí tranh ở đây rất độc đáo với lối dựng hình kết hợp dân gian và hiện đại. Cảnh tượng được nhìn từ chiều ngang và từ trên xuống. Sắc độ của từng gam màu chuyển dịch từ nâu sẫm qua xám sáng, được xếp đặt rất kỹ bên cạnh những mảng màu vàng và đỏ. Hình ảnh con chim câu hờ hững đậu trên lưng chiếc ghế dựa như cứ ám ảnh lấy người xem.

Trước biển - sơn dầu


Làm việc đều mà lại có vẻ tà tà là phong cách của anh. Một hôm người ta thấy tranh anh treo đầy trên tường của một quán cà phê trong thành phố. Đó là một loạt tác - phẩm - thể - nghiệm được thực hiện với một chất liệu hơi lạ là loại bố thô lấy từ bao tải đựng gạo. Cuộc trưng bày tranh trước công chúng “kiểu êm êm” này gây thích thú không ít. Khuôn mặt tròn như trăng rằm của thằng bé. Con ngựa gỗ - đồ chơi của con anh hay ngựa sắt Phù Đổng trong truyền thuyết. Những mặt trời hay vòng sáng của niềm hy vọng. Những biểu tượng về sự kết hợp âm dương đầy bí ẩn… Giới thưởng ngoạn trong thành phố gọi loạt tranh này của anh là tranh tô - tem. Có lẽ do tính cách tượng trưng, vẻ huyền bí, vừa là ngây thơ trong cách nhìn.

1982, 83, 84…

Tháng năm cứ qua đi và Bửu Chỉ cứ đều đều cho ra tác phẩm của mình, khẳng định từng bước kiếm tìm và nỗ lực sáng tạo không ngừng của anh.

Ở một thời đại mọi sự xảy ra đều được truyền thông một cách mau chóng nhất. Chắc chắn những gì cách tân trong nghệ thuật tạo hình không thể nào anh không lưu ý tới. Một hôm chúng tôi tranh cãi về vấn đề này. Anh đã bảo vệ rất hăng cái gọi là tình thế. Anh cho rằng một nghệ sĩ trước hết phải sống với thời đại của hắn, tác phẩm của hắn có giá trị là ở chỗ đã nói lên được một cái gì. Một họa sĩ Việt Nam năm 1980 làm thế nào có thể vẽ như một họa sĩ bên tây, nếu không muốn rơi vào một kiểu làm dáng “modernisme”. Mỗi thời đại, hoàn cảnh, mỗi không gian, thời gian đều có những suy nghĩ, những tình cảm và nỗi ám ảnh riêng. Mỗi một nội dung đòi hỏi một hình thức thích hợp. Và họa sĩ Bửu Chỉ đã chọn được cho mình cái hình thức thể hiện, cái bút pháp thích hợp với vấn đề của anh. Nó kết hợp cách nhìn dân gian với lối dựng hình trong không gian của hội họa hiện đại. Bút pháp đó có khi là những tính toán cân nhắc thật kỹ để cho một sự vật nào đó đang nằm phục ở đâu đó bỗng nhiên xuất hiện trong tranh tạo sự bất ngờ đột biến (bông hoa dại trong tranh “Ngựa đá”, cánh chuồn chuồn trong “Nhà máy vôi” v.v…).

Hải Âu - sơn dầu


Ở “Hải âu”, Với màu vàng dịu của bãi cát trải dài bên mặt biển phẳng lặng, con chim hải âu đậu trên chiếc mỏ neo sét rỉ cắm sâu vào lòng đất, u ẩn nhìn ra khơi và một bầu trời như đang có sa mù… “Tĩnh vật cà phê đen” với không gian tranh thật trống được phủ tuyền một màu nâu có chuyển dịch đậm nhạt chút ít tạo ra một matière rất lạ, ly cà phê một mình nằm đó như muốn nhắc nhở điều gì. “Trong phòng vẽ của tôi” với kích thước 80x140 là bức tranh khá lớn kể từ trước đến nay của Bửu Chỉ. Tranh được xây dựng bằng ba hình ảnh: đứa con trai đầu lòng của anh, chừng 5 tuổi, tay cầm chiếc diều; một mặt bàn đỏ sẫm bên trên chiếc đĩa sứ trắng có một quả xanh và ở giữa là một khung vải còn để trắng đặt trên giá, có vẻ như chờ đợi… Và thế là dù muốn dù không tranh đã đặt ra cho người xem những vấn đề. Mà vấn đề đó có vẻ như chưa giải đáp, đang cần một đối thoại? Hay đó là nỗi ước mơ về những điều tốt đẹp trong tấm lòng mỗi chúng ta?...

N.H.N
(11/1&2-85)





Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • LÊ VĂN THUYÊNThuộc lớp họa sĩ được đào tạo cuối cùng ở trường Mỹ thuật Đông Dương, nhưng họa sĩ Phạm Đăng Trí đã đi vào con đường hoạt động nghệ thuật chủ yếu là bằng cái vốn tự học tập, tự tìm tòi và nghiên cứu riêng của mình.

  • ĐẶNG MẬU TỰUKhi được Hội Mỹ Thuật Việt Nam phân bố cho miền Trung một suất đi thực tế Trường Sa, Họa sĩ Lê Văn Nhường là một điểm trong tầm ngắm để được giới thiệu đi trong chuyến hải hành này. Trường Sa là một trong những mục tiêu mà Hội Mỹ thuật quan tâm trong cuộc vận động sáng tác về biển đảo trong năm 2010 - là điểm nóng vì là tiền tiêu của Tổ quốc. Ai cũng mong có một lần được đi đến đó.

  • THANH TÙNGVào những ngày cuối tháng 7-2010 Đinh Cường từ Mỹ về và Phan Ngọc Minh từ Đà Nẵng ra tổ chức một cuộc triển lãm tranh ở gallery Chiêu Ê - số 89 Minh Mạng, thành phố Huế - nhà riêng của hoạ sĩ Hoàng Đăng Nhuận.

  • TRẦN THANH BÌNHCách đây đúng 9 năm, có một họa sĩ xứ Huế đã lang thang gần 2 tháng trời trên những góc phố cổ kính Hà Nội để "chiêm nghiệm", đó là Lê Quý Long.

  • LÊ QUÝ LONGMùa xuân năm ấy, vào dịp Tết, chợt nhớ đến người bạn đồng nghiệp ở cách thành phố hơn hai kilômét về phía tây dọc theo dòng sông Hương. Anh ở gần chợ Long Thọ, bên trái là con đường đi đến sân Hổ Quyền.

  • SĨ THIỆNTrại sáng tác điêu khắc Quốc tế lần 2 được tổ chức tại Huế đã kết thúc được 3 tháng. Bằng sự lao động sáng tạo, bất chấp cái "mưa thúi đất thúi trời", 14 nhà điêu khắc Việt Nam là 16 nhà điêu khắc đến từ châu Mỹ, châu Âu, châu Á đã để lại cho Huế 30 bức tượng, một món quà vô giá và vĩnh hằng.

  • NGÔ MINHTôi quen biết họa sĩ Đặng Mậu Tựu từ những ngày gửi con trai đi học lớp hội họa ở Nhà Thiếu nhi Huế. Những ngày đó thiếu nhi đến học vẽ đông lắm. Có lớp buổi sáng, buổi chiều, lại có lớp ban đêm. Lớp nào cũng có mặt thầy Đặng Mậu Tựu có mái tóc bồng bềnh như sóng Quy Nhơn, mặt mày hốc hác vì thiếu ngủ và thiếu dinh dưỡng, cặm cụi dạy các cháu cách cầm cọ, pha màu, phác thảo tranh. Rồi thầy Tựu dắt các em đi chơi Bạch Mã, Lăng Cô... để tìm cảm hứng vẽ.

  • LGT: Sau hơn năm tháng bị tai biến, họa sĩ Hoàng Đăng Nhuận đang dần hồi phục trở lại. Ý thức sống là sáng tạo đã thôi thúc người họa sĩ. Và như vậy toile đã căng lại trên khung, màu cũng đã sẵn sàng.A. Camus trong một cơn bệnh đã chiêm nghiệm “Bệnh tật là một dòng tu kín”. Hy vọng rằng trong ngọn lửa sáng tạo nhen lên lần này, tranh Hoàng Đăng Nhuận có thêm nhiều chiêm nghiệm mới trong dòng tu kín của mình.S.H

  • ĐẶNG MẬU TỰU... Về quê, về quê, ai cũng có ít ra một lần về quê.Về cái nơi chôn nhau cắt rốn ấy, dù giàu nghèo đến đâu thì mảnh đất ấy cũng rất thiêng và rất riêng với mình.

  • NGUYỄN NGUYÊN ANTừ những thập niên sáu mươi đến tám mươi của thế kỷ trước, trong làng vẽ Huế, họa sĩ Lê Vinh - một cây cọ cinéma nổi lên như hiện tượng. Tưởng rằng, ông chuyên vẽ tranh quảng cáo, pano, nhưng không, ông có 20 bức vẽ còn lưu giữ trong Bệnh viện Trung ương Huế từ năm 1970 và là người vẽ tranh Bác Hồ to lớn nhất Việt Nam trong thời điểm 1975.

  • HẠNH NHIĐó là tên sê-ri tranh sơn mài của họa sĩ Đinh Khắc Thịnh - người được biết đến nhiều với các tác phẩm mỹ thuật sắp đặt trong các Festival nghề thủ công truyền thống và các Festival Huế.

  • PHAN THANH BÌNH-KHÁNH TRANGNăm nay triển lãm mỹ thuật Bắc Miền Trung lần thứ VIII được tổ chức tại Thanh Hoá, vùng đất địa đầu của khu vực miền Trung. Triển lãm trưng bày 116 tác phẩm của 46 tác giả là hội viên Hội Mỹ thuật Việt Nam và 51 tác giả hội viên Hội VHNT các địa phương. Hội đồng nghệ thuật đã loại 19 tranh vi phạm quy chế về thời gian sáng tác, kích thước (TT-Huế có 3 tranh) và đặc biệt trong đó có 9 tranh bị loại vì chất lượng nghệ thuật kém.

  • PHAN THANH BÌNHHình bóng người phụ nữ xứ Huế từ lâu đã được khắc sâu trong nghệ thuật hội họa với bao tác phẩm, dáng hình và tình cảm sâu nặng, với những vẻ đẹp chiều sâu hài hòa, rung cảm, xao động lòng người. Những tác phẩm ấy đã có ý nghĩa lịch sử lớn lao trong việc khẳng định và làm sáng tỏ hơn những giá trị tinh thần, phẩm chất của con người Huế nói chung và của người phụ nữ Huế nói riêng.

  • Đầu năm 1997, khi mới chuyển về công tác tại Đài Truyền hình Huế, tôi có ý định làm một phim tài liệu nghệ thuật về hoạ sĩ Bửu Chỉ. Sau nhiều lần từ chối, họa sĩ Bửu Chỉ đã đồng ý giúp tôi việc này. Ngày 25-2-97, tôi gửi anh 7 câu hỏi nhằm có thêm tư liệu để lên đề cương kịch bản phim. Hơn 20 ngày sau, anh chuyển cho tôi một thếp giấy vở học trò gồm 13 tờ do tự tay anh viết xong, đề ngày 16-3-1997. Vì nhiều lý do, phim chưa làm được, tôi gửi trả anh các tư liệu đã mượn, riêng bài trả lời phỏng vấn, anh nói tôi hãy giữ làm kỷ niệm về một dự định bất thành.Với tất cả tấm lòng thương quý và kính mến một người Anh, xin được giới thiệu bài trả lời phỏng vấn của Anh mà tôi xem như là những trang di cảo về CUỘC ĐỜI VÀ NGHỆ THUẬT.                                                ĐẠI DƯƠNG

  • ĐẶNG MẬU TỰUGiới họa sĩ xem Bửu Chỉ là một người đặc biệt không chỉ vì tính khí hoặc bởi từ một người học và tốt nghiệp ngành luật nhưng lại tự học vẽ,  có tác phẩm từ lúc học Luật rồi trở thành họa sĩ thực thụ, chết sống với nghề, mà vì tác phẩm của anh có một sắc thái riêng, anh đã tạo cho mình một cõi riêng trong nền nghệ thuật đương đại.

  • NGUYỄN TRỌNG TẠOMột ngày cuối năm Con Khỉ, tôi ghé vào Gallery Minh Châu số 7 Lý Đạo Thành, Hà Nội, không phải để chiêm ngưỡng tranh của các bậc thầy hội hoạ Nguyễn Phan Chánh, Bùi Xuân Phái, Nguyễn Tư Nghiêm, Nguyễn Sáng... vẫn thường được bày bán ở đây, hay để thăm cô chủ nhỏ Minh Châu quen thân từ trong Huế như mọi lần, mà để xem tranh của mẹ cô vừa mang từ Huế ra trình làng với giới hâm mộ hội hoạ đất Hà Thành.

  • PV: Ảnh hưởng nào đã cho hoạ sỹ về một thế giới quan có tên gọi là: "Không gian Lê Bá Đảng"? Lê Bá Đảng (L.B.Đ): Không gian của tôi là tạo hoá thiên nhiên hài hoà trong tác phẩm. Không có cô đứng, cô ngồi, cô uỷ lụy, cô say, cô tỉnh, cô chiêm bao; không nhìn thẳng như mọi người mà nhìn từ nhiều góc độ.

  • PHÚC VINHSau một thời gian dài lang bạt giang hồ, tết này, họa sĩ Hoàng Đăng Nhuận quyết định trở về Galery Chiêu Ê, nơi ông đã gắn bó một thời trai trẻ, trú mình trong căn họa thất xinh xắn vừa xây dựng.

  • TRẦN KIÊM ĐOÀNLàm nghệ thuật ở xứ nghèo là một “thiện nghiệp gian nan”! Thiện nghiệp vì làm cho đời vui. Gian nan vì phải sống đời áo cơm vất vả.

  • TRẦN HẠ THÁP Với gần bốn mươi bức tranh trong cuộc triển lãm ở số 4 Hoàng Hoa Thám - Huế khai mạc vào 11 tháng 10 năm 2008, Võ Xuân Huy đã đặt người thưởng ngoạn trước một công trình tổng hợp từ 3 phạm trù sơn mài độc đáo. Sự nối kết truyền thống vào hiện đại này mang tầm vóc đặt để một nguyên lý, xứng đáng để giới bình luận lưu tâm và ghi nhận lâu dài.