Ảnh: Internet
Hò giã gạo là trở loại hò thích hợp nhất cho lối hò đối đáp nam nữ. Với nhịp điệu, tiết tấu dồn dập, rộn ràng, hò giã gạo rất thích hợp với lao động tập thể, đồng thời cũng rất hấp dẫn lôi cuốn những người trong và ngoài cối hò say theo câu hát. Tính chất đối đáp nam nữ đã thể hiện ngay trong bước đầu của tiến trình cuộc hò giã gạo. Bắt đầu cuộc hò là lối hò chào: Túi (1) trời không biết bạn là ai. Cho tui chào chung một tiếng rạng mai tới tìm. Hoặc: Chào chung chào chạ chào bậy chào bạ, chào cả và cươi (2) Chào người ngang vế bằng vai Có ai ân tình đạo hạnh lắng tai nghe chào Sau lời chào hỏi, người gia nhập cuộc hò được mời cầm giã gạo. Lối hò mời được xướng lên để khởi đầu một cuộc hò: Thiếu tay tui phải cầm chày Khuyên cùng với bạn dở hay đừng cười. Sau hò chào, hò mời (gọi là hò vào cuộc) là hò gần, để làm quen, gồm các câu trao đổi thăm hỏi nhau. Khi nhịp chày đã đều đặn, phần trung tâm cuộc hò đối đáp nam nữ mới thực sự khai diễn. Hò đâm bắt, hò đối, hò đố, hò ân tình liên tiếp nhau làm không khí cuộc hò giã gạo thêm rộn ràng. Để kết thúc cho cuộc hò này, các câu hò xa cách (hay từ tạ) đã để lại bao lưu luyến trong tâm tư những người trong cuộc. Trong sinh hoạt hò giã gạo, hễ ai đã cầm chày là gia nhập vào thành phần cuộc hò. Mỗi cối hò gồm 4 người, cả nam lẫn nữ, cuộc hò có thể kéo dài từ tối đến sáng. Trong cối hò đối đáp, hò đố mà không trả được thì phải buông chày ra về. Trường hợp này xảy ra không hiếm khi người cùng cối hò muốn chọc ghẹo nhau, hoặc không vừa ý, nên ra câu hắc búa để thử tài hoặc khỏi hò với nhau. Hệ thống hò khoan Lệ Thủy ở Quảng Bình cũng theo một tiến trình tương tự như tiến trình của hò giã gạo. Mở đầu cuộc hò là hò mái chè sau đó là hò mái nện, hò mái ba, hò mái nhì, hò mái duỗi và hò mái xắp. Hò khoan Lệ Thủy có mặt khắp nơi trong sinh hoạt của nhân dân do nó có nhiều làn điệu phù hợp với tính chất công việc lao động: Đẵn củi, xay lúa, lùa trâu, cất nhà, đưa đò, dệt vải v.v… Đó thật là một hệ thống hò phổ biến, tiêu biểu cho lối hò đối đáp nam nữ ở Bình Trị Thiên. Hò mái nhì ở Huế là một loại hò vừa có thể dùng để hò đơn lẻ, lại vừa dùng trong khi đối đáp. Là một điệu hò trên sông nước, hò mái nhì vừa có chức năng phụ lực cho lao động, lại vừa đủ yếu tố để thể hiện tâm tình. Điệu hò man mác, trầm buồn, ngân nga và sâu lắng, êm đềm như mặt nước sông Hương. Âm điệu hò mái nhì có khả năng khơi động đến nơi cùng thẳm nhất của tâm hồn người: Đó là một điệu hò đầy tính trữ tình, rất phù hợp với sự thổ lộ tâm tình của những người sống trên sông nước. Hò mái nhì bắt đầu bằng lời một người ướm hỏi một người. Nếu được đáp ứng, cuộc hò có thể kéo dài tùy theo quãng dài con sông và tùy theo tình cảm những người trong cuộc. Bắt đầu bằng lời chào hỏi, kéo dài bằng những lời trao đổi tâm tình và kết thúc bằng những câu hò hẹn. Hò mái nhì ở Huế có đầy đủ yếu tố để nam nữ đối đáp thổ lộ tâm tình. Hò mái nhì Triệu Hải lại được dùng khi quay sợi dệt vải. Tiến trình một cuộc hò mái nhì ở Triệu Hải như hò giã gạo. Tuy có nguồn gốc là các điệu hò trong lao động, hò giã gạo và hò mái nhì đã được đưa vào các cuộc vui chơi giải trí do lòng ham thích mến mộ của nhân dân. Sân nhà của các cụ Ưng Bình Thúc Giạ Thị, Thảo Am Nguyễn Khoa Vy ở Huế đã biến thành nơi tụ hội của các tay hò nổi tiếng ở Bình Trị Thiên vào những đêm trăng sáng. Các cối hò đựng trấu thay gạo, các tay hò chỉ cầm chày giã để lấy nhịp, tạo hứng khởi cho các câu hò đối đáp. Chủ nhân lại là “thầy gà” (3) cho cả hai phe đối đáp. Trong cuộc vui này, sự đóng góp của các nho sĩ đã là một nhân tố tích cực để phong phú hóa kho tàng văn học dân gian ở Bình Trị Thiên. Do sự ham thích hò hát của nhân dân ngày càng mạnh mẽ, các hình thức sinh hoạt hò do chính quyền tổ chức cũng làm biến đổi phần nào tính chất đối đáp nam nữ. Đây là lối tranh tài đối đáp để ăn giải, các câu hò được sự tiếp tay sáng tạo của các nho sĩ nên nội dung không khỏi chịu ảnh hưởng của văn học bác học. Mở đầu loại hò này là lời thách hò, mời đối thủ, tiếp đến là các tay hò đối đáp các điển cũ, tích xưa, hoặc các hiện tượng đang xảy ra trong xã hội đương thời. Kết thúc cuộc hò là câu kết của ban tổ chức. Ta hãy nghe lời mở đầu cuộc hò của lối hò giã gạo được tổ chức tại hội chợ Huế năm 1939. Gái: Đêm hăm lăm tháng hai năm Mão Quanh trường giã gạo giữa chốn ba quân Bạn mày râu ai giỏi quốc văn Về đây tranh giải với bạn thoa quần thử chơi Trai: Gái Tây Thi chẳng ai bì bên nước Việt Gái Văn Khương lại ở bên nước Tề Nực cười cô gái nhà quê Đến đây có dám trổ nghề văn chương Trong các cuộc vui văn nghệ quần chúng, lối hò mái nhì, hò giã gạo cũng được nhân dân rất hâm mộ. Ngày nay có nhiều địa phương tổ chức các cuộc hò, mời các tay hò nổi tiếng hò đối đáp với nhau. Hình thức hò đối đáp nam nữ cũng có mặt trong ngày “hội cầu mùa” tại làng Hà (xã Bảo Ninh - Bình Trị Thiên) trong ngày hội, dân làng Hà tổ chức “Hò khoan chèo cạn” và múa bông. Nội dung chủ yếu của các câu “hò khoan chèo cạn” là ca ngợi công đức của cá ông voi, nhưng xen kẽ có nhiều câu đề cập đến quê hương đất nước, phô diễn tâm tư tình cảm của người dân. Đoàn hát múa “hò khoan chèo cạn” toàn là nữ, xinh đẹp, chưa chồng xếp thành hai hàng đối nhau. Hai người hò cái, một nam một nữ (không kể đã có vợ hay chồng) cầm cặp sênh giữ nhịp, điều khiển. Tính chất trữ tình trong hát hội “hò khoan chèo cạn” được thể hiện qua câu hò đối đáp nhau giữa hai người hò cái nam và hò cái nữ, liên tục cho đến khi kết thúc buổi trình diễn. “Mở hội hò khoan cho đẹp lòng eng ả (4) Cho vui làng vui xã vui cả bạn hiền!” Trong cuộc hò này, tính chất thế tục đã lẫn vào tính chất nghi lễ, tuy không lấn át hẳn nhưng đó cũng là một hiện tượng phản ảnh được yêu cầu ham thích văn nghệ của nhân dân, muốn lấy văn nghệ làm môi trường cho sự phát triển tâm tình, dù trong không khí của một buổi lễ trang trọng. Cũng như trên mọi vùng đất nước, ý nghĩa nội dung hò đối đáp nam nữ ở Bình Trị Thiên là tính chất trữ tình. Tình cảm được đề cập đến không chỉ đơn thuần là tình yêu nam nữ mà còn mở rộng sang tình yêu gia đình, quê hương, đất nước, dân tộc. Trong các cuộc vui văn nghệ quần chúng, đề tài kháng chiến là một trong những đề tài làm sôi động không khí cuộc hò. Qua hò đố và hò đối trong hò đối đáp, tri thức tự nhiên và xã hội của nhân dân Bình Trị Thiên được thể hiện rất phong phú. Ta có thể bắt gặp ở các câu giải kiến thức tổng quát của nhân dân về văn học, sử học, địa lý, nông nghiệp, khoa học tự nhiên… Với nội dung phong phú, có thể nói hò đối đáp nam nữ là môi trường cho kiến thức tổng quát của nhân dân có dịp trao đổi, phát triển. Tri thức ngôn ngữ cũng thể hiện thật phong phú trong hò đối đáp ở Bình Trị Thiên. Ta có thể thấy trong các câu đố, câu đối và giải, một số hiện tượng của ngôn ngữ đã được sử dụng. * Hiện tượng cùng âm, khác nghĩa: Nữ: Em hỏi anh trong trăm thứ dầu Có dầu chi là dầu không thắp Trong ngàn thứ bắp, bắp chi là bắp không rang Trong vạn thứ than, than chi là than không quạt Trong triệu thứ bạc, bạc chi là bạc không tiêu Trai nam nhi anh đối được dải lụa điều em trao. Nam: Trong trăm thứ dầu, có mưa gió dãi dầu là dầu không thắp Trong ngàn thứ bắp, có lắp bắp mồm miệng là bắp không rang Trong vạn thứ than, có than thở thở than là than không quạt Trong triệu thứ bạc, có bạc tình bạc nghĩa là bạc không tiêu Trai nam nhi anh đối được. Hỏi dải lụa điều em có chưa? * Hiện tượng cùng nghĩa, khác âm: Nữ: Em lên lưng voi em hỏi cái đường vạn tượng Tay em lại dắt dê hỏi chốn lan dương Đố anh mà đối đặng em cho soi gương vàng. Nam: Dây bí ngô trèo trên cây trụ tàu Cờ thượng mã phất sau đuôi ngựa Anh đối đặng rồi lật ngửa gương ra. Trong các câu đối đáp trên các từ cùng nghĩa khác âm được sử dụng là voi-tượng; dê-dương; ngô-tàu; mã-ngựa. * Hiện tượng từ đối nghĩa: Nữ: Quan Thừa Thiên thì mang áo địa Lính đông Hải đội nón dầu sơn. Trai nam nhi đối đặng, thiếp xin Kết nghĩa tấn tần ngàn năm. Nam: Gái nước Nam buôn hàng thuốc Bắc Trai Đông sàng cảm động miền Tây Anh đã đối đặng, em rày tính sao. Hai câu hò trên đối nghĩa ở các từ: Thiên - địa; Hải - sơn; Nam - Bắc; Đông - Tây. Ngoài ra còn có các hiện tượng từ trái nghĩa, nói lái, lối sử dụng lối chơi chữ Hán Việt và thuần Việt. Sử dụng các hiện tượng của ngôn ngữ trong hò đối đáp, nhân dân Bình Trị Thiên đã chứng tỏ trình độ văn hoá của mình. Phải là người có trình độ văn hoá, lại nhanh trí mới có thể đáp ngay được các câu đố hắc búa trên. Trong trường hợp này, các “thầy gà” giữ một nhiệm vụ khá quan trọng. Nếu không được mách bảo, người trong cuộc khó có thể ứng đối kịp thời. Phải buông chày ra về khi cuộc vui đang lúc hào hứng là một điều hổ thẹn khôn nguôi, cho nên hò đối đáp nam nữ buộc người trong cuộc phải thông minh nhanh nhẹn, hoạt bát mới đủ sức chống đỡ trước mọi tình huống khó khăn. Qua hò đối đáp nam nữ ở Bình Trị Thiên, ta có thể thấy được tâm hồn cùng trình độ tư duy, văn hoá của những con người sống trên mảnh đất kiên cường, nghèo khó nhưng đầy tính chất thơ của miền Trung, đó là những con người rất chân tình, trọng đạo nghĩa. Giai đoạn hò ân tình, trong tiến trình cuộc hò giã gạo đã để lại biết bao câu đầy tình nghĩa thiết tha: Rồi mùa toóc rạ rơm khô Bậu về quê bậu, biết nơi mô kiếm tìm Hoặc: Ra về để áo lại đây Đêm khuya em đắp kẻo ngọn gió tây lạnh lùng Cần phải hiểu rằng, tuy hò đối đáp nam nữ là nhịp cầu thuận lợi cho sự giao duyên, cho tâm tình dễ dàng khai mở nhưng trường hợp các người đến hò vì nhu cầu văn nghệ đơn thuần cũng không ít. Biết bao người đã có gia đình mà vẫn còn say mê hò đối đáp nam nữ. Các cặp từ mình - ta, qua - bậu, anh - em, lê- lựu, chàng - thiếp, rồng - mây, loan - phụng v.v… có trong hò đối đáp tuy chỉ lứa đôi, nhưng nhiều khi chỉ là giả định. Đó là một hình thức đóng kịch nhất thời để thỏa mãn nhu cầu thẩm mỹ. Tan cuộc, ai về nhà nấy, không còn vướng bận ở tâm tư như ý nghĩa câu hò chào: Tới nơi đây ai có chồng dặn chồng đừng sợ Ai có vợ dặn vợ chớ ghen Vô đây hò hát để gá nghĩa làm quen Rạng ngày mai ai mô về nấy chớ thả lòng ghen bạn cười. Với ý nghĩa ấy, những người tham dự cuộc hò đối đáp nam nữ mặc sức bông lơn, trêu ghẹo nhau nhưng không vì vậy mà không giữ gìn ngôn ngữ, ý tứ. Do ảnh hưởng của nền văn hoá lâu đời chốn kinh đô, nhân dân Bình Trị Thiên vốn ưa sử dụng từ ngữ bóng bẩy ví von hơn là nói thẳng dù trong ý đồ trêu cợt. Để trả lời câu hỏi của phe con gái thôn Bao La chuyên đan thúng mủng: Liệu mà đát đặng thì đan Chứ đừng có gầy ra mà bỏ đó thế gian chê cười Chàng trai Bình Trị Thiên đã dùng những tiếng nhà nghề rất hóm hỉnh mà ngắn gọn: Anh đây đan cũng giỏi mà đát cũng tài Lận thì nhún trên nhún xuống, nứt thì chui ngoài chui vô Khác với chàng trai Quảng Nam xằng xớm, bộc trực đến thô sơ sỗ sàng: Bớ các cô ơi, tui đây không phải trai hư Tui đan đặng, tui đát được tui lận chừ cho cô coi Lận rồi tui chặn lột hẳn hoi Ở trên tui rấn xuống ở ngoài tui đè vô Nói ra sợ mất lòng cô Ngó trong cái mủng chỗ mô tui cũng dùi Tuy người Bình Trị Thiên có giữ gìn ý tứ trong ngôn ngữ, lễ phép nhưng không quá chú trọng đến nghi thức kiểu cách như ở Hà Bắc. Trong hát Quan họ Hà Bắc, tiến trình nghi thức rất phức tạp: “Phía chủ nhà tổ chức phải sửa soạn bữa “cơm quan họ”, phía khách, trước khi đến nơi quy định, phải vào hát lễ Phật. Ban đầu Quan họ bạn đến cổng phải cất tiếng hát mừng bạn. Quan họ chủ đứng giữa sân hát “đón nhời” chúc lại làng bạn và chào bạn. Quan họ chủ giở nón, ô cho Quan họ bạn, đón bạn vào ngồi một giường (nếu là bố trí ngồi hai giường hát đối đáp) Quan họ chủ hát mời bạn xơi trầu, uống nước. Quan họ bạn hát đáp và cảm ơn bạn. Hầu như mọi hành động mọi tình tiết đều lấy câu hát làm đầu”(5). Lời hát thì thật duyên dáng, kiểu cách: Nhất quế, nhì lan Nhất xinh, nhất lịch khôn ngoan trăm bề Người ngoan ai chẳng nâng niu Hoa thơm ai chả chắt chiu trên cành Là thú hữu tình Vì huê nên phải lánh mình tìm huê, Cho trọn một bề… Dấu ấn của nền văn hoá cổ truyền còn in sâu đậm trong con người Hà Bắc tạo nên một phong cách riêng biệt mà những qui cách, lề lối, ngôn ngữ trong hát Quan họ đã phần nào thể hiện được. Con người Bình Trị Thiên tuy mộc mạc trong cách phô diễn tình cảm, nhưng nét thắm thiết trữ tình vẫn rất đậm đà, như âm điệu và ý nghĩa câu hò từ tạ trong hò đối đáp giao duyên: Trăng đã lên cao, trời sao vằng vặc Mỗi tiếng hò réo rắt lòng anh Nhắn chừng đêm đã sang canh Ta dừng chày giã gạo kẻo sương đọng trên cành quá khuya. T.T.B (6/4-84) ---------- 1. Túi: tối, tiếng địa phương. 2. Cươi: sân, tiếng địa phương. 3. Là người chỉ dẫn, bày vẽ các câu hò đối đáp. 4. Anh, chị - tiếng địa phương. 5. Đặng Văn Lung và tác giả khác. Quan họ nguồn gốc và quá trình phát triển. NXB Khoa học xã hội. Hà Nội 1978 trang 36. |
NGUYỄN HỮU THÔNG (Dẫn liệu từ miền Trung Việt Nam)I. Có lẽ khi những đoàn lưu dân Việt từ đất Bắc trong quá trình mở cõi về Nam, họ buộc phải có những thích ứng khá táo bạo khi tiếp cận với một vùng địa sinh thái mới lạ, cùng với nền văn hóa của cư dân bản địa tiền trú, ít chất tương đồng, cho dù, tất cả đều chịu sự chi phối của không gian đặc thù Đông Nam Á.
NGUYỄN HỮU NHÀNXa xưa tục ném còn có ở nhiều nơi trong nước. Ở đất bản bộ của Vua Hùng cũng có nhiều làng, nhất là ở vùng Mường không mấy làng không tổ chức ném còn trong dịp hội xuân và hội làng.
TRẦN NGUYỄN KHÁNH PHONG Trong nghi lễ vòng đời người của người Tà Ôi, lễ cưới là một trong những nghi lễ quan trọng nhất và được phản ánh qua những điều cấm kị, kiêng cữ mà mỗi đôi trai gái, gia đình hai bên, những người tham gia đám cưới phải thực hiện.
TRẦN HOÀNGTrên dải bờ biển dài 340 km, từ chân Đèo Ngang đến chân đèo Hải Vân có hàng chục làng làm nghề chài lưới, đánh bắt và chế biến hải sản. Tổ tiên của cư dân các làng biển này đều có gốc gác từ các tỉnh phía Bắc.
TRẦN HOÀNG Cách đây gần 450 năm, khi đề cập tới phong tục và sinh hoạt văn hoá tinh thần của cư dân vùng đất từ Đèo Ngang trở vào, tiến sĩ Dương Văn An đã viết: “Xuân sang thì mở hội đua trải, gái lịch, trai thanh. Hè đến thì bày cuộc đấu thăm, dập dìu rộn rã nơi ca, chốn múa…” (1).
LAN PHƯƠNGHuyện Phong Thổ (còn có tên gọi Mường Tso, Chiềng Sa) tỉnh Lai Châu nằm trong vùng núi rừng hùng vĩ với mạng lưới sông suối dày đặc và những thung lũng lòng chảo màu mỡ. Nơi đây tụ hội nhiều dân tộc anh em cùng chung sống như Thái, Dao, H'Mông. Hà Nhì, Giáy... trong đó người Thái (Tay đón, hay Táy Khao) chiếm vai trò chủ thể, cư trú lâu đời với thiết chế bản mường chặt chẽ.
TRẦN HOÀNGCho đến nay cũng chưa ai biết rõ tín ngưỡng thờ cá voi ở các làng chài ven bờ biển Bình Trị Thiên xuất hiện từ bao giờ. Song việc cá voi dạt vào vùng bờ biển này thì đã được sử sách ghi lại từ cách đây gần 450 năm.
PHAN THUẬN ANLễ hội là sinh hoạt văn hoá tinh thần của một cộng đồng người và đã có từ lâu trong lịch sử của nhân loại nói chung và của dân tộc Việt Nam nói riêng. Lễ hội phản ánh một cách rõ nét những đặc trưng về lịch sử và văn hoá của mỗi địa phương và của từng quốc gia.
LÊ ANH TUẤNCứ vào độ cuối tháng 11 Âm lịch trở đi thì không khí Tết dường như đã dần dần hiện diện trong cái tiết trời, cây cỏ và trong sinh hoạt thường nhật của người Huế.
TRẦN VŨTrâu là loài động vật thích nghi với hệ sinh thái đầm lầy, ấm, ẩm thuộc khu vực Đông Nam Á. Nó là một nhân tố cấu trúc hữu cơ của nền văn minh nông nghiệp trồng lúa nước Việt Nam “Con trâu là đầu cơ nghiệp”, “Trên đồng cạn, dưới đồng sâu/ Chồng cày vợ cấy con trâu đi bừa”...
NGUYỄN THỊ SỬUKhông dịp nào bằng lễ Aya (lễ cúng mùa, tết), trên mỗi nóc nhà người Taôi bốc lên nghi ngút thơm lừng hương vị cơm mới hoà quyện với bao món ăn đặc sản bay đi khắp núi rừng.
HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNGTrong kỷ niệm về thời thơ ấu của mỗi người ở Huế, thế nào cũng có những kỷ niệm về coi bói ngày Tết, nghĩa là có pha một chút mê tín dị đoan. Bởi vì suy cho cùng, đặc trưng của tinh thần Huế đâu có xa lạ gì với chuyện mê tín dị đoan. Người Huế nhìn vào đâu cũng thấy ngũ hành, vì vậy, thói kiêng cữ hoạc sùng bái lại càng là một thứ đặc sản Huế ở nơi họ.
NGUYỄN THỊ NGUYÊN HƯƠNGTết là một sự kiện đặc biệt trong đời sống của người Việt . Tục lệ về Tết cũng là chuyện “đất lề quê thói”, mỗi nơi có một cách riêng để đón Tết dù Tết mọi nơi cũng tương tự như nhau. Riêng với Huế, tục lệ đón Tết cũng mang những nét đặc trưng của vùng đất từng là kinh kỳ.
NGUYỄN KHẮC XƯƠNGTết miền Trung xưa có thể nói không thể thiếu vắng bài chòi. Đây là một hình thức vui chơi đấu trí cũng như tổ tôm điếm, cờ người, cờ bỏi ngoài Bắc. Bài chòi là hình thức chơi bài lá phổ biến ở các tỉnh Nam Trung bộ như Quảng Bình, Quảng Nam, Đà Nẵng, Quảng Trị, Thừa Thiên, Bình Định, cũng còn gọi là hát bài chòi.
LÂM TÔ LỘCTrong di sản văn hoá dân tộc ở Việt Nam, múa dân tộc Việt có bề dày lịch sử được xác định bởi những hoa văn hình múa trên trống đồng Ngọc Lũ. Múa truyền thống nổi lên ở các lễ hội. Có người cho rằng người Việt không có thói quen sinh hoạt múa tập thể. Sử sách đã nói đến truyền thống sinh hoạt múa này.
TRẦN HOÀNGThành ngữ Việt có câu: "Vui như tết". Quả là như vậy! Tết vui không phải chỉ vì Tết là dịp để sum họp gia đình, gia tộc, để chú, bác, cậu, dì, bà con nội ngoại và xóm giềng tề tựu, gặp gỡ, thăm viếng nhau dưới một mái đình, mái nhà chung.