Hình tượng Macondo trong “Trăm năm cô đơn” - từ góc nhìn văn hóa Mỹ latinh

09:23 01/10/2010
PHAN TUẤN ANH “Trên thực tế, mỗi người chỉ viết một cuốn sách. Chỗ khó là làm sao biết được cuốn sách nào đang được một người viết ra. Trong trường hợp của tôi, điều người ta nhắc đến thường xuyên nhiều hơn cả là cuốn sách về làng Macondo…” (G.G.Marquez).

Nhà văn G.G.Marquez - Ảnh: internet

Được lấy cảm hứng từ một lần đi tàu hỏa cùng mẹ quay về Aracataca để bán ngôi nhà cũ của ông ngoại, địa danh Macondo xuất hiện bất ngờ trước mắt tác giả khi nhìn thấy tên của một đồn điền chuối. Trong quá trình tìm hiểu sau đó, Marquez biết được rằng Macondo có thể bắt nguồn từ tên gọi Makondos của một bộ tộc du mục ở Tanganyika, hoặc cũng có thể là tên của một loài cây vùng nhiệt đới khá giống với cây gạo. Tuy nhiên, sở dĩ vùng đất Macondo đã ám ảnh xuyên suốt sự nghiệp sáng tác của Marquez, không phải bởi sự ngẫu nhiên khi tìm thấy một địa danh, mà bởi tên gọi này đã phù hợp với dự phóng sáng tạo của người cầm bút. Bởi đó là một tên gọi: “khiến tôi chú ý ngay từ những chuyến đi đầu tiên với ông ngoại, nhưng chỉ khi trở thành người lớn, tôi mới phát hiện rằng mình thích nó bởi nó đọc lên nghe rất nên thơ” [8,35]. Như vậy, vùng đất Macondo trong những sáng tác của Marquez không mang cảm hứng từ một loài cây nhiệt đới, một tộc người du mục, hoặc một đồn điền chuối có thật ở Aracataca, mà là địa danh nên thơ của một giấc mơ. Lựa chọn hình tượng có tính chất phiếm chỉ đó, Marquez đã có dụng ý để cho Macondo: “luôn luôn tồn tại một không gian huyền thoại” [1,326].

nh chất huyền thoại của Macondo không chỉ tạo ra không gian nghệ thuật, giọng điệu trữ tình nên thơ trong tác phẩm, mà quan trọng hơn, đó là dụng ý xây dựng một hình tượng “mẫu gốc” cho mọi địa danh, mọi xứ sở ở Mỹ Latinh. Macondo chính vì thế là một địa danh thuộc về huyền thoại, một ngôi làng đã biến mất cùng sự tuyệt diệt của những dòng họ trăm năm cô đơn bởi tội lỗi loạn luân bị nguyền rủa. Chính vì tầm ý nghĩa quan trọng trên, hình tượng Macondo đã xuất hiện ít nhất trong năm tác phẩm của Marquez, mà đó đa phần lại là những tác phẩm quan trọng nhất sự nghiệp sáng tác của ông. Trong Trăm năm cô đơn, hình tượng Macondo không đơn thuần chỉ là không gian diễn ra câu chuyện, mà hình tượng này còn được đặt trong chiều kích sử tính của thời gian huyền ảo, tạo nên một dòng chảy thời gian biên niên, được đánh mốc bởi bảy thế hệ cô đơn của dòng họ Buendía. Bảy thế hệ dòng họ Buendía lại biểu trưng cho sự phát triển và tuyệt diệt của loài người, nên Macondo là một thế giới thu nhỏ, đặt trong tiến trình lịch sử trải qua bốn chặng chính là khai lập - phát triển - thịnh vượng và suy tàn, nói cách khác là từ “lịch sử hồng hoang của con người cho đến thời hậu hiện đại” [2,221]. Macondo chính vì thế là hình tượng mang tính chất cảnh tỉnh nhân loại, cùng nền văn minh cô đơn “không có dịp may lần thứ hai để trở lại làm người trên mặt đất này” [Mọi trích dẫn trong tác phẩm từ đây về sau chúng tôi chọn bản dịch của Nguyễn Trung Đức, Phạm Đình Lợi, Nguyễn Quốc Dũng, Nxb Văn học, in năm 2003 tại Hà Nội], [trang 483].

Quá trình khai lập ra Macondo của những cư dân đầu tiên, mà vợ chồng José Arcadio Buendía và Úrsula Iguarán chính là những người dẫn đầu, luôn thấm đẫm truyền thống văn hóa Mỹ Latinh. Đầu tiên là câu chuyện ly hương để tìm ra Macondo đã được tác giả xây dựng đầy tính chất huyền thoại. Lý do trực tiếp dẫn đến sự ly hương của hai vợ chồng nhà Buendía là bởi cái chết của Prudencio Aguilar trong một cuộc chọi gà. Chỉ một câu nói lỡm khi gà mình thua cuộc: “Tao mừng cho mày… để xem xem cuối cùng con gà ấy có làm ơn cho vợ mày không nào” [trang 45], Prudencio Aguilar đã phải trả giá bằng mạng sống của chính mình, khi José Arcadio Buendía thách đấu và đã ném cây lao bách chiến bách thắng của dòng họ mình xuyên qua cổ của nạn nhân. Nhưng sau đó, ám ảnh hối lỗi cùng sự xuất hiện đầy bi thảm của hồn ma P.Aguilar trong ngôi nhà của dòng họ Buendía, hai vợ chồng trẻ đã quyết định ra đi tìm một vùng đất mới, nhằm làm thanh thản vong hồn người đã chết, và cũng để làm nguôi ngoai chính sự dằn vặt trong lòng mình. Như vậy, cuộc hành trình khám phá ra thế giới mới là một hành trình nhằm trốn chạy khỏi ám ảnh tội lỗi vì đã giết đồng loại.

Tuy nhiên, nguyên nhân sâu xa cho hành trình đó lại là ám thị về tội loạn luân. Hai vợ chồng José Arcadio Buendía và Úrsula Iguarán đều lấy nhau với địa vị là những người bà con gần gũi về huyết thống, trong một dòng họ có truyền thống loạn luân. Chính vì vậy, sự cảnh báo của tổ tiên về hậu quả sẽ đẻ ra những đứa con kì đà, những đứa con có cái đuôi lợn luôn ám ảnh hai vợ chồng trẻ, khiến Úrsula luôn đeo chiếc quần trinh tiết mỗi khi gần gũi chồng. Chính cái quần này làm người ta nghi ngờ bản năng đàn ông của José A.Buendía, và cơn giận giữ đó đã bùng phát không thể nào cưỡng nổi khi P.Aguilar vô tình nói lỡm. Ngay trong đêm mà cả làng khóc thương cho cái chết bi thảm của P.Aguilar, José A.Buendía đã quyết tâm xé tan chiếc quần trinh tiết, và cả hai vợ chồng ái ân trong hoan lạc cho đến sáng. Như vậy, nguyên nhân sâu xa của cuộc ly hương đến Macondo, có nguồn gốc từ tội lỗi liên quan đến sự thưởng thức “trái cấm” bị nguyền rủa. Trong đó, “Adam” José A.Buendía và “Eva” Úrsula Iguarán đã bất chấp lời răn dạy của “Thượng đế” tổ tông, sự cấm kỵ của dòng họ, cái chết của đồng loại, nhằm kiếm tìm ý nghĩa và thụ hưởng hạnh phúc của tình yêu (và tình dục) một cách quyết liệt nhất, không khoan nhượng và vượt qua mọi rào cản của những thiết chế. Câu chuyện về tội lỗi của José A.Buendía và Úrsula Iguarán như vậy là một câu chuyện được lấy cảm hứng từ Kinh thánh, nhưng được viết theo tinh thần hậu hiện đại, nơi chính con người trừng phạt con người, chứ không phải là thượng đế. Và ngay khi đến với nhau trong hoan lạc, José Arcadio Buendía hoàn toàn ý thức được hành vi cũng như hậu quả của việc mình làm, chứ không đơn thuần hành động ngây thơ dưới sự xui khiến của con rắn độc như Adam và Eva. Con người hậu hiện đại đã chấp nhận sống với hậu quả, trong một “thời đại mà sự ngây thơ đã bị đánh mất” (U.Eco): “Nếu mình đẻ ra kì đà thì chúng mình sẽ nuôi kì đà” [trang 46].

Chủ thể làng Macondo trong giai đoạn khai lập là lão trượng José Arcadio Buendía, người điều hành và cũng là người khai phá ra vùng đất này. Lão trượng José Arcadio Buendía đã điều hành Macondo trong sự công bằng của một thị tộc công xã nguyên thủy, và chính đạo đức lẫn sức mạnh thể chất đã đem lại vị trí thống ngự cho ông, hệt như một tù trưởng thông thái và anh minh. Macondo do đó được tạo dựng nên với tư cách là một “tân thế giới” thu nhỏ, một vùng đất không có người chết và không ai quá ba mươi tuổi, được đối xử công bằng và tự do đậm chất văn hóa châu Mỹ. Cách xây dựng hình tượng như trên không khỏi làm chúng ta nhớ đến quá trình Cristoforo Colombo tìm ra châu Mỹ - một châu lục mở ra thế giới mới với biết bao kì vọng về một xứ sở giàu có, tự do và tươi trẻ. Sự đam mê khoa học của lão trượng José Arcadio Buendía cùng cư dân ở Macondo phản ánh khát khao hiểu biết, nhưng cũng đồng thời vạch ra sự lạc hậu của họ so với phần còn lại của thế giới. Thông qua những người Digan, các “phát minh vĩ đại” như đá nam châm, hàm răng giả, máy chụp ảnh, nước đá, kính viễn vọng… đã được người dân Macondo hào hứng đón nhận trong sợ hãi và kính phục. Những cảm xúc hệt như người da đỏ lần đầu tiên tiếp cận với nền văn minh châu Âu, mà tiêu biểu là sự nhầm lẫn những kẻ thực dân Tây Ban Nha là thần Viracocha trở về.

Tuy nhiên, quá trình tìm ra Macondo là một sự ngẫu nhiên không mong muốn. José Arcadio Buendía trên hành trình đi tìm một vùng đất hứa có vị trí thuận lợi, nhằm thông thương với toàn thế giới, nhưng đoàn người đã bị chặn lại bởi bốn bề là đầm lầy, rừng và biển. Trước ý định muốn đi tiếp để tìm ra vùng đất hứa, Úrsula Iguarán với sự quyết liệt không khoan nhượng của mình đã giữ mọi người ở lại Macondo: “Nếu cần thiết tôi phải chết để các người ở lại đây, tôi sẽ chết” [trang 37]. Như vậy, quá trình này không khỏi làm chúng ta liên hệ đến sự ngẫu nhiên tìm ra châu Mỹ của Cristoforo Colombo, khi chuyến đi của ông là nhằm tìm một con đường mới đến Ấn Độ: “Các hoàng tử - những tín đồ Đạo Cơ Đốc, tôn thờ và mong muốn mở rộng niềm tin Công giáo linh thiêng, là những người chống lại giáo lý Mahomet cũng như mọi hình thức sùng bái thần tượng và dị giáo - đã cử tôi, Christopher Columbus, đi đến các miền đất của Ấn Độ” (trích nhật ký C.Columbus về chuyến đi năm 1492) [6,16]. Qua đó, khát vọng đích thực đằng sau quá trình ngụ cư ở Macondo, cũng như quá trình xâm chiến châu Mỹ của người phương Tây, xét trên phương diện xã hội học, đó là tham vọng mở rộng thị trường, tìm kiếm tài nguyên và phát triển kinh tế thông thương ra tầm thế giới.

Trên nền của sự soi chiếu các chi tiết nghệ thuật với những sự kiện, điển tích có thật trong lịch sử hoặc trong Kinh thánh, Macondo đã được tác giả xây dựng phát triển không ngừng trên cả phương diện chính trị và kinh tế. Trên phương diện chính trị, văn hóa, Macondo đã bắt đầu xây dựng những thiết chế nhà nước đầu tiên (tuy còn lỏng lẻo), với sự xuất hiện của quan thanh tra Moscote. Các nhà thờ với cha xứ cũng đến cùng lúc với sự xuất hiện của chính quyền, bởi quá trình khai lập và xây dựng hệ thống chính trị ở châu Mỹ bao giờ cũng gắn song hành giữa hai quyền lực: quyền lực thần quyền của đạo Cơ đốc (nhằm chống lại các tín ngưỡng bản địa và các thầy phù thủy của người da đỏ), và quyền lực bạo lực thực dân của các đế quốc mà chủ yếu là Tây Ban Nha (nhằm chống lại các thủ lĩnh bộ lạc da đỏ). Lật lại lịch sử, trong trận chiến Cajamarca - bước ngoặt đánh dấu chiến thắng quyết định của thực dân Tây Ban Nha với đế quốc Inca, vai trò của thần quyền Cơ đốc và vương quyền thực dân cũng đã gắn bó với nhau hết sức mật thiết. Năm 1532, tại thành phố cao nguyên Cajamarca (thuộc Peru ngày nay), dưới sự lãnh đạo của Francisco Pizarro, 168 lính Tây Ban Nha của vua Charles Đệ nhất với sự vũ trang gươm thép, súng, giáp trụ và ngựa (những thứ người da đỏ chưa có) đã đánh tan 80.000 chiến binh Inca và bắt sống vua Atahualpa của người da đỏ. Trong trận chiến này, người ra lệnh tấn công không phải là F.Pizarro, mà là đức cha Vicente de Valverde. Khi vua Atahualpa quẳng quyển Kinh thánh xuống đất, đức cha Valverde đã nhân danh Chúa nhằm ra lệnh cho quân đội: “Đến đây! Những người Công giáo, hãy đến đây! Hãy tấn công bọn kẻ thù chó má này, kẻ đã dám cự tuyệt những gì là của Chúa… Hãy tiến lên trừng trị nó đi, ta sẽ tha tội cho các con” [3,78].

Sự kiện xuất hiện căn bệnh mất trí nhớ trong ngôi làng Macondo thời kì này, cũng không khỏi làm cho chúng ta liên tưởng đến lịch sử khai phá châu Mỹ của người châu Âu. Các đế quốc thực dân đã chinh phục những dân tộc da đỏ không chỉ bằng sự mua chuộc, gươm, súng, mà đặc biệt là bằng vi trùng, biểu hiện thông qua những căn bệnh dịch mà người da đỏ chưa bao giờ nếm trải. Người châu Âu nhờ có kháng thể từ trước nên sẽ có sức đề kháng mạnh hơn, còn người da đỏ hầu như bị tuyệt diệt trong những trận dịch lây lan một cách nhanh chóng. “Khắp nơi ở châu Mỹ, các bệnh dịch do người châu Âu mang tới… giết chết 95% dân số người châu Mỹ bản địa tiền Columbus” [3,85]. Căn bệnh dịch mất trí nhớ trong làng Macondo thời kì này cũng được đem đến bởi một nhân vật “ngoại lai”, đó là sự xuất hiện của Rebecca, cô con gái nuôi kì lại với nỗi đam mê ăn đất. Từ mất ngủ cho đến mất trí nhớ, bệnh dịch đã phát tán khắp Macondo và suýt tàn phá ngôi làng nhỏ này khi mọi người dần mất hết lý trí, qua đó, đánh mất bản sắc văn hóa bản địa. Nền văn hóa Mỹ Latinh vẫn thường được mệnh danh là nền “văn hóa lai”, với sự xen lẫn, xung đột và kết hợp giữa văn hóa người da đen có nguồn gốc nô lệ, người da đỏ bản địa, người da trắng có nguồn gốc thực dân, người da vàng di cư và hệ thống người lai tạp giữa các chủng người đến trước. Yếu tố “ngoại lai” và “hỗn tạp” luôn là xu hướng thống ngự bản sắc văn hóa Mỹ Latinh. Người cứu thoát Macondo cũng là một nhân vật đến từ bên ngoài, đó là sự tái xuất hiện của người Digan thông thái Melquíades. Như vậy, khả năng dùng dịch bệnh như một loại vũ khí, cũng như khả năng dùng khoa học để chữa lành những căn bệnh dịch chính là thứ vũ khí sinh học tối tân nhất của người châu Âu trong quá trình xâm lược và thống ngự châu Mỹ.

Hình tượng một con tàu mục nát nằm bên bờ biển, khi José Arcadio Buendía cố tìm ra con đường thông thương Macondo với thế giới, cũng làm ta liên tưởng đến những đoạn viết của nhà thám hiểm Stephens, người đã tìm ra nền văn minh Maya cổ trên đất Nam Mỹ: “Một thành phố đổ nát. Nó nằm trước chúng ta như một con thuyền mục nát nằm giữa đại dương, cột buồm đã gãy, tên thuyền đã mờ, tất cả thủy thủ đoàn đã bỏ mạng, chẳng còn một ai cho chúng ta biết nó từ đâu tới, chủ nhân của nó là ai… và vì sao nó bị tàn phá” [4,176].

Sự xuất hiện những đoàn người Digan cũng chính là biểu trưng cho chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh. Người Digan đến nhằm mua bán và trao đổi những vật phẩm hằng ngày, và đa phần là những trò lừa bịp với những sản vật ngang giá của địa phương. Cái chết đầu tiên trên Macondo lại là cái chết của Melquíades, đấng tiên tri và cứu thế của Macondo. Báo hiệu cho một điềm gở diễn ra trong tương lai không bao giờ có thể né tránh, một khi Macondo phát triển theo hướng tư bản hóa. Những cuộc gian lận bầu cử, đàn áp dân chúng bắt đầu diễn ra, kèm theo sự xuất hiện của những công ty nhập khẩu và các sản phẩm đa quốc gia: “giường tủ sản xuất tại Viên, gương kính sản xuất ở xứ Bohemia, bát đĩa do công ty Tây Ấn sản xuất, khăn phủ bàn Hà Lan…” [trang 88]. Tiêu biểu cho những điều kiện phát triển của tư bản quốc tế lúc này là sự xuất hiện của nhân vật Pietro Crespi - chuyên gia người Italia trong việc lắp ráp, chỉnh sửa và dạy đàn Piano. Đây là giai đoạn thanh bình nhất của Macondo, cho dù sự phát triển về mặt kinh tế là chỉ mới khơi mào. Sự kiện quan trọng nhất trong giai đoạn này, đó là việc Úrsula tình cờ tìm ra con đường thông thương Macondo với thế giới, khi đang lần theo dấu chân của đứa con trai José Arcadio. Từ đây, Macondo không còn là một ốc đảo khép kín, mà với việc xuất hiện của máy móc và bưu kiện, ngôi làng nhỏ đã bắt đầu kết nối vào hệ thống kinh tế thế giới. Chủ thể của giai đoạn này đó là Aureliano Buendía, từ một thanh niên u sầu, chăm chỉ làm những con cá vàng trong xưởng kim hoàn, cho đến một chàng trai tuyệt vọng vì mất vợ, và cuối cùng là vị đại tá tổng tư lệnh quân khởi nghĩa - người đã phát động 32 cuộc nội chiến để rồi thất bại hoàn toàn với hiệp ước Neerlandia, chấm dứt cuộc chiến tranh Một ngàn ngày. Từ bước ngoặt này, Macondo chính thức bước sang thời kì mới đầy thăng trầm và đẫm máu.

Điểm kết thúc và hủy diệt của dòng họ Buendía cũng cùng thời điểm với sự biến mất của Macondo. Sau một cơn mưa kéo dài bốn năm, mười một tháng và hai ngày, và tiếp đó là suốt mười năm hạn hán không có lấy một giọt nước, Macondo đã bị nhấn chìm và xóa sạch trong một cơn cuồng phong bão táp của số phận. Lật lại lịch sử và văn hóa châu Mỹ, đây là một quá trình hủy diệt có tính chất định mệnh, liên quan đến sự phát triển và diệt vong của những nền văn minh bản địa. Khi một xã hội phát triển lên đến thời hoàng kim, với sự tăng vọt về mật độ dân số, thì môi trường đã bị tàn phá đến mức không thể chịu đựng nổi. Do quá trình chặt cây và tàn phá rừng, dẫn đến mất nguồn nước ngầm, từ đó hạn hán, thiếu nước xảy ra triền miên và những cư dân bắt đầu ăn thịt lẫn nhau cũng như gây ra những cuộc chiến đẫm máu. Sự biến mất của nền văn minh Maya rõ ràng là một minh chứng đi trước của Macondo. Trong gần mười năm, từ 810 cho đến 820, sau đó là gần sáu năm trong thập niên 910, đế quốc Maya đã hứng chịu những cơn hạn hán đến kiệt quệ. Theo Richardson Gill, đây cũng là những điểm mốc đánh dấu sự sụp đổ dần nền văn minh rực rỡ của người da đỏ Maya. Một số nền văn minh cổ xưa khác ở châu Mỹ như đế chế Akkadian (2170 tr.CN) tại Trung Mỹ, nền văn minh Moche IV (600 s.CN) tại bờ biển Peru, nền văn minh Tiwanaku tại vùng núi Andes (1100 s.CN), nền văn minh của người Anasazi tại Bắc Mỹ (700 s.CN)… đều bị sụp đổ trong những kì hạn hán kinh niên. Theo Jared Diamond, có năm nguyên nhân cơ bản khiến những nền văn minh cổ đại biến mất, bao gồm: bùng nổ dân số, cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên, chiến tranh, hạn hán, nạn quan liêu độc tài. Trong đó, chiến tranh và sự xâm lược của thế giới bên ngoài không đóng vai trò quyết định đến sự suy tàn của những nền văn minh cổ, mà chính sự tàn phá môi trường, dẫn đến hậu quả xảy ra thiên tai dữ dội mới chính là nguyên nhân cơ bản nhất. J.Diamond viết: “Nhưng trên tất cả là yếu tố thay đổi khí hậu. Đợt hạn hán xảy ra tại thời điểm Maya cổ điển bị sụp đổ không phải là đợt hạn hán đầu tiên mà người Maya phải hứng chịu, nhưng nó là đợt hạn hán khắc nghiệt nhất” [4,195].

Có thể nhận định rằng, nếu “nỗi cô đơn” là chủ đề lớn nhất mà G.G.Marquez dành cả cuộc đời để theo đuổi, thì hình tượng trung tâm nhất, có tính xuyên suốt các tác phẩm của nhà văn người Colombia lại không phải là một nhân vật cụ thể, mà chính là hình tượng về vùng đất Macondo. Qua sự lựa chọn này, G.G.Marquez đã có dụng ý xây dựng một hình tượng đủ sức đảm trách những vai trò lớn lao. Macondo qua đó trở thành không gian và khả tính của một nền văn hóa trong cả hai chiều kích: chiều rộng của không gian vùng Caribbe và chiều dài sử tính của văn hóa Mỹ Latinh. Như vậy, hình tượng Macondo được xây dựng dựa trên sự giao cắt của huyền thoại với hiện thực, là hình tượng được tái hiện trong nhiều tác phẩm khác nhau, mà chủ yếu được phác họa trong Trăm năm cô đơn (Cien anos de soledad - 1967), tiểu thuyết lớn nhất trong sự nghiệp của G.G.Marquez và cũng là một trong những cuốn tiểu thuyết vĩ đại nhất mọi thời đại.

P.T.A

(259/9-10)






Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • HỒNG NHULTS: Những cuộc trao đổi mang tính nghề nghiệp về thơ ở tầm "vĩ mô" dường như đang co lại ở tầm "vi mô". Các ý kiến khác nhau, thậm chí ngược nhau trong tranh luận học thuật là chuyện bình thường. Song, sẽ không bình thường khi công cuộc đổi mới của Đảng đã bước vào nền kinh tế tri thức mà vẫn còn những "tư duy thơ" theo cơ chế suy diễn với những mục đích gì đó, ngoài thơ.Nhằm rộng đường dư luận, Sông Hương xin được trao đổi lại một trường hợp cụ thể sau đây.

  • MAI VĂN HOANỞ Huế tôi đã có nghe bạn bè nói sơ qua về cuộc hội thảo tập thơ "Đám mây lơ lửng" của Hoàng Vũ Thuật, tác phẩm đoạt giải A giải thưởng VH-NT Lưu Trọng Lư lần thứ hai (1996 - 2000) do Hội Văn nghệ Quảng Bình tổ chức.

  • ĐÀO DUY HIỆP“Đi tìm thời gian đã mất” của Marcel Proust (1871-1922) là một tiểu thuyết đồ sộ gồm bảy tập với trên dưới ba nghìn trang ngày nay đã được độc giả toàn thế giới say sưa đón đọc và được nhiều nhà văn, nhà nghiên cứu đánh giá rất cao.

  • THÁI THU LANThông thường, mỗi văn nhân nghệ sĩ đều có nỗi đau đời, nỗi đau nhân thế. Nỗi đau này băt nguồn từ tấm lòng nhân ái và ý thức trách nhiệm của người nghệ sĩ trước cuộc sống và số phận con người qua những biến động của xã hội.

  • HOÀNG QUẢNG UYÊNTôi yêu mến và quý trọng những câu thơ như là "không thơ" của chị:Câu thơ nước chảy bèo trôi/ Vẫn nghiêng về phía phận đời khổ đau. (Hương cỏ)

  • FRANÇOIS JULLIEN                                        LTS: Hạ tuần tháng tư năm 2001, nhà triết học F.Jullien đến thăm Hà Nội nhân dịp lần đầu tiên công trình của ông được giới thiệu ở Việt Nam trong văn bản tiếng Việt (Xác lập cơ sở cho đạo đức- N.x.b Đà Nẵng, 2000). Cuối năm nay sẽ được xuất bản bản dịch công trình Bàn về tính hiệu quả ( F.Jullien. Traité de l’efficacité.Grasset, 1997). Sau đây là bản dịch chương III của tác phẩm này (do khuôn khổ của tạp chí, có lược đi một số đoạn). Nhan đề do chúng tôi đặt. Trong bài, số thiên đơn thuần (chẳng hạn th.81) là số thiên trong sách Đạo Đức Kinh còn gọi là sách Lão tử.

  • NGÔ MINH Tôi quen biết với anh Tường hơn 25 năm nay ở Huế như một người bạn vong niên thân thiết. Trong máy tính của tôi còn lưu trữ bài Anh Tường ơi viết từ năm 1998, gần 3000 chữ chưa công bố. Đó là bài viết mà nhà văn Nguyễn Quang Hà, Tổng biên tập Tạp chí Sông Hương lúc đó, bảo tôi viết, sau chuyến chúng tôi đi thăm anh Tường bị trọng bệnh đang nằm hôn mê ở Bệnh viện Đà Nẵng về.

  • HỒ THẾ HÀHoàng Phủ Ngọc Tường dấn thân vào nghiệp bút nghiên bằng thơ cùng những năm tháng "hát cho đồng bào tôi nghe" sục sôi nhiệt huyết đấu tranh chống thù và ước mơ hòa bình trên quê mẹ Việt yêu dấu.

  • PHẠM PHÚ PHONG"Tôi ngồi nhớ lại tất cả nỗi trầm tư dài bên cạnh mớ hài cốt khô khốc của anh Hoàng. Trước mắt tôi, tất cả cuộc sống đầy những hùng tráng và bi thương vốn đã từng tồn tại trên mảnh đất rừng này, giờ đã bị xoá sạch dấu tích trong sự câm nín của lau lách. Như thế đấy có những con đường không còn ai đi nữa, những năm tháng không còn ai biết nữa, và những con người chết không còn hắt bóng vào đâu nữa...

  • LÊ THỊ HƯỜNG1. Yêu con người Hoàng Phủ Ngọc Tường trong thơ, quý con người Hoàng Phủ trong văn, tôi đã nhiều lần trăn trở tìm một từ, một khái niệm thật chính xác để đặt tên cho phong cách Hoàng Phủ Ngọc Tường.

  • TRẦN THÙY MAICó lần anh Hoàng Phủ Ngọc Tường nói: tính chất của người quân tử là phải "văn chất bân bân". Văn là vẻ đẹp phát tiết ra bên ngoài, chất là sức mạnh tiềm tàng từ bên trong. Khi đọc lại những bài nghiên cứu về văn hóa – lịch sử của anh Tường, tôi lại nhớ đến ý nghĩ ấy. Nếu "văn" ở đây là nét tài hoa duyên dáng trong từng câu từng chữ đem lại cho người đọc sự hứng thú và rung cảm, thì "chất" chính là sức mạnh của vốn sống, vốn kiến thức rất quảng bác, làm giàu thêm rất nhiều cho sự hiểu biết của người đọc.

  • TRƯƠNG THỊ CÚCXuất thân từ một gia đình hoàng tộc, cử nhân Hán học, giỏi chữ Hán, thông thạo chữ  Pháp, từng làm quan dưới thời Nam triều, nhưng Ưng Bình Thúc Giạ Thị là một nhân cách độc đáo.

  • HỮU VINH Chúng ta đã thưởng thức thơ, ca Huế, ca trù, hò, tuồng của thi ông Ưng Bình Thúc Giạ Thị, một nhà thơ lừng lẫy của miền sông Hương núi Ngự. Nhưng nói đến sự nghiệp văn chương của thi ông mà không nói đến thơ chữ Hán của thi ông là một điều thiếu sót lớn.

  • ĐỖ LAI THÚYQuang Dũng nói nhiều đến mây, đặc biệt là mây trời Sơn Tây, Tôi nhớ xứ Đoài mây trắng lắm! Mây là biểu tượng của tự do, của lãng du. Mây trắng là xứ sở của tiêu dao trường cửu. Chất mây lãng tử ở Quang Dũng, một phần do thổ ngơi xứ Đoài, phần kia do văn học lãng mạn.

  • CAO XUÂN HẠOĐọc bài Nỗi đau của tiếng Việt của Hữu Đạt (H.Đ) trong tuần báo Văn nghệ số 9 (2-3-2002), tôi kinh ngạc đến nỗi không còn hiểu tại sao lại có người thấy mình có thể ngồi viết ra một bài như thế. Tôi cố sức bới óc ra nghĩ cho ra người viết là ai, tại sao mà viết, và viết để làm gì. Rõ ràng đây không phải là một người hoàn toàn không biết gì về giới ngôn ngữ học Việt . Nhưng hầu hết những điều người ấy viết ra lại hoàn toàn ngược với sự thật.

  • MAI VĂN HOAN.Tôi biết Nguyễn Duy qua bài thơ “Tre Việt ” in trên báo Văn Nghệ. Từ đó, tôi luôn theo sát thơ anh. Mở trang báo mới thấy tên anh là tôi đọc đầu tiên. Với tôi, anh là một trong những người hiếm hoi giữ được độ bền của tài năng.

  • THỦY TRIỀU SUNG HUYỀN"Đây thôn Vĩ Dạ" là một bài thơ nổi tiếng của Hàn Mặc Tử đã từng có nhiều cách hiểu, cách tiếp cận khác nhau. Đành rằng ngôn ngữ thơ ca thường hàm súc, cô đọng, đa nghĩa do đó có thể có nhiều cách tiếp cận tác phẩm.

  • NGUYỄN DƯƠNG CÔNMỗi loại hình nghệ thuật ngôn từ đều có phong cách riêng trong cư xử với đối tượng mà nó phản ánh. Chính vì thế, đề tài tiểu thuyết trong khi mang những tính chất chung có của mọi thể loại văn học, nó đồng thời mang những tính chất riêng chỉ có của thể loại tiểu thuyết.

  • VĂN TÂMNhà thơ Bằng Việt (tên thật Nguyễn Việt Bằng) tuổi Tỵ (1941) quê "xứ Đoài mây trắng lắm", là một trong những thi sĩ bẩm sinh của thơ ca Việt hiện đại.

  • THANH THẢOHoàng Phủ Ngọc Tường có tập thơ "Người hái phù dung". Hoa phù dung sớm nở tối tàn, vẫn là loài hoa hiện hữu trong một ngày.