Hình tượng con trâu trong các nền văn hóa

13:22 10/02/2021

ĐINH THỊ TRANG

Trâu là một trong những vật nuôi gần gũi với con người. Chúng được thuần hóa rất sớm (cách nay khoảng 6.000 năm). Trâu hiện diện trong đời sống lao động vật chất cho đến đời sống tinh thần của người dân. Tùy theo các nền văn hóa mà chúng có sự ưu ái và địa vị khác nhau.

Ảnh: internet

1. Con trâu trong văn hóa các nước trên thế giới

Ở Philippines, trâu carabao, trâu tamaraw được xem là một biểu tượng của quốc gia. Hình ảnh con vật xuất hiện trên đồng xu 1 peso Philippines phiên bản từ 1980 đến đầu 1990. Ngày nay, trâu rừng Philippines cũng là linh vật của đội thể thao thuộc Đại học Viễn Đông (FEU Tamaraws) tại Hiệp hội Thể thao Đại học của Philippines, và Toyota Tamaraws thuộc Hiệp hội Bóng rổ Philippines.

Một số dân tộc coi trâu như biểu tượng của sự giàu có hay địa vị xã hội. Chẳng hạn tộc người Mahafales ở phía Nam đảo Madagascar rất xem trọng trâu, họ cắm những cột gỗ tạc hình trâu trên mộ để biểu thị địa vị xã hội và sự giàu có của người đã mất.

Ở châu Phi, người ta ca ngợi sức mạnh của loài trâu thông qua truyền thuyết Quái vật mình trâu, đầu bò Catoblepas trong thần thoại Ethiopia cổ. Catoblepas là vị thần có hình dáng mình trâu đầu bò. Chiếc đầu của Catoblepas luôn hướng xuống đất do cặp sừng quá nặng, cùng chiếc lưng lớn có nhiều gai nhọn sẽ bảo vệ chúng khỏi kẻ thù. Chúng có thể giết con mồi bằng hơi thở và ánh nhìn bởi khả năng hóa đá con mồi bằng cách nhìn thẳng vào mắt đối phương1. Quái vật này thường ăn một loại cỏ có độc tính mọc bên sông.

Đối với người dân Hy Lạp, con trâu đực được xếp đứng đầu trong quan niệm về 12 con giáp, tiếp đó là sơn dương, sư tử, lừa, cua, rắn, cá sấu, hồng hạc, vượn, chim ưng, chuột. Tại Tây Âu, người ta coi chiếc tù và làm bằng sừng trâu là biểu tượng của ngành bưu chính do vào thời trung cổ, vì đi nhiều nơi nên các lái buôn đã kiêm luôn cả việc chuyển thư, bưu kiện. Mỗi khi đến một nơi họ lại thổi tù và sừng trâu để mọi người đến nhận hoặc gửi thư.

Người dân Ai Cập cổ đại thì coi trâu rừng tượng trưng cho sức mạnh và sự dũng mãnh. Người Ai Cập xếp con trâu vào trong danh sách 12 con giáp như người Hy Lạp.

Có lẽ hình tượng trâu xuất hiện nhiều hơn cả là trong văn hóa phương Đông. Người phương Đông đã tìm thấy và đặt tên cho bốn chòm sao, gồm 28 ngôi sao chính gọi là nhị thập bát tú, trong đó có sao Ngưu thuộc chòm sao Huyền Vũ nằm ở phương Bắc ứng với hành thủy, thuộc về mùa đông. Họ cho rằng sao Ngưu, sao Đẩu là những ngôi sao sáng, thường được gắn cho những người có trí tuệ trác việt. Một số dân tộc theo Phật giáo ở phương Đông có nhiều câu chuyện về con trâu, mượn hình ảnh loài vật này để nói về triết lý, văn hóa, đạo lý sống, đó là tự chăn bản thân, tự chăn tâm ngã như thể đang thuần phục một con trâu.

Tranh phong thủy - Ảnh: internet


Ở Ấn Độ, hình tượng con trâu mang nhiều ý nghĩa trái ngược. Một mặt người theo đạo Hindu cho rằng con trâu là biểu tượng của cái chết. Jean Chevalier và Alain Gheerbant trong Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới cho biết: “Trong tranh tượng Hindu giáo, nó là vật cưỡi và là biểu hiệu của Yama, thần chết. Ở Tây Tạng cũng thế, tử thần mang đầu trâu2.

Mặt khác, những người trong giáo phái Gelugpa - phái Mũ trùm vàng - Bồ tát Manjushri lại cho rằng người bãi miễn sự chết có biểu tượng mang đầu trâu. Con trâu là hình ảnh điển phạm của asura (người khổng lồ) Mahesha, bị Candi - một hiện thân của Umâ hay Durga - chiến thắng và chặt đầu. Có lẽ bởi trâu thích đầm lầy nên nó được đặt vào quan hệ với tính ẩm ướt bị chiến thắng bởi mặt trời hay hạn hán. Cũng vì thế, ở Ấn Độ người ta giết trâu tế thần vào cuối mùa mưa. Nhưng trong tranh tượng tôn giáo, asura xuất hiện dưới hình dạng người, trút bỏ dần hình thể con vật bị chém đầu và điều này có một ý nghĩa linh thiêng3.

Tại Indonesia, tộc người Balak, người Minang Kabaus trên đảo Sumatra và người Torajas trên đảo Salawesi đều rất sùng kính trâu như một biểu tượng có vai trò lớn trong cuộc sống. Sự tích của người Minang Kabaus kể rằng ông tổ của họ nhờ một con trâu mà đánh thắng được giặc cướp, vì thế dân tộc này quyết định lấy tên là: Trâu chiến thắng (Minang = trâu, Kabaus = chiến thắng). Trong đám cưới của người Batak, bao giờ cũng có tổ chức chọi trâu với ý nghĩa những đặc tính của con trâu chiến thắng sẽ truyền sang đôi trai gái mới lấy nhau.

Trâu cũng chính là một trong số 12 con vật tượng trưng cho chu kỳ 12 năm Địa Chi của người Trung Quốc, Việt Nam, Nhật Bản, Hàn Quốc, Bắc Triều Tiên và nhiều quốc gia khác ở châu Á. Nó gắn liền với địa chi Sửu, đứng hàng thứ hai sau Tý và đứng trước 10 con vật khác. Về tính âm dương, 12 con vật được chia xếp thành hai cực âm và dương đứng đan xen nhau, trong đó con trâu (Sửu) thuộc âm. Những người tin tưởng vào chiêm tinh học Trung Hoa luôn gắn những đặc tính của trâu với sự cần cù, siêng năng, thật thà, khỏe mạnh… Những ai sinh vào năm này thường được cho là cuộc sống có nhiều vất vả.

Ở Trung Quốc, con trâu cũng đóng vai trò quan trọng trong nhiều phương diện văn học, tôn giáo, hội họa, ca dao, tục ngữ, phong tục... Người ta quan niệm trâu là thánh vật nên thường dùng làm vật tế lễ, là biểu tượng cho cầu nối giữa trời và đất, người và tiên để thần tiên ban phước lành cho mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu, nhân gian an bình. Ai mơ trâu vàng đến nhà là điềm phú quý, cưỡi trâu vào thành là có hỉ sự, trâu sinh nghé là tâm thành ý nguyện,… Trong   truyền thuyết Ngưu Lang Chức Nữ cho biết, Ngưu Lang là vị thần chăn trâu của Thượng đế vì say mê một tiên nữ dệt vải tên là Chức Nữ mà bỏ bê việc chăn trâu. Chức Nữ cũng vì mê tiếng sáo của Ngưu Lang mà trễ nải việc dệt vải. Ngọc Hoàng giận, bắt cả hai phải ở cách xa nhau, người đầu, kẻ cuối sông Ngân. Sau đó, Ngọc Hoàng thương tình cho hai người mỗi năm được gặp nhau một lần trên cầu Ô Thước vào đêm mùng 7 tháng Bảy âm lịch. Lúc chia tay nhau cả hai đều khóc, nước mắt của họ rơi xuống trần gian thành cơn mưa nhẹ gọi là mưa Ngâu. Bên cạnh đó, con trâu cũng xuất hiện trong nghệ thuật tạo hình Trung Hoa từ hàng thế kỷ trước. Tiêu biểu như bộ tranh Thập mục ngưu đồ, tức mười bức tranh chăn trâu nổi tiếng trong Thiền tông, tương ứng với quá trình hành đạo của một người phát nguyện đạt giác ngộ rất nổi tiếng. Bộ tranh này được cho là có từ thời Lão Tử (571 - 471 trước Công nguyên), đến thời nhà Tống (960 - 1279), bộ tranh này mới thấy xuất hiện tại các thiền viện. Và sau đó, được coi là tiêu biểu về Thiền của Trung Quốc nói riêng và Thiền phương Đông nói chung, và được phổ biến rộng rãi từ Đông sang Tây.
 

Tranh của họa sỹ Đặng Mậu Tựu



2. Con trâu trong văn hóa Việt

Việt Nam là nước nông nghiệp lúa nước, luôn xem “con trâu là đầu cơ nghiệp”. Với vai trò hết sức quan trọng như vậy nên hình ảnh của nó được thể hiện phong phú ở nhiều địa phương và trên nhiều lĩnh vực.

Trong sản xuất thời trước, khi chưa có máy móc hiện đại thì sức kéo rất quan trọng. Nhà nào làm nông hầu hết đều nuôi trâu hoặc bò. Việc người Việt ai cũng thuộc những câu tục ngữ, thành ngữ “tậu trâu cưới vợ, làm nhà…”, “ruộng sâu, trâu nái”, “chín đụn mười trâu”… đã nói lên vị trí, vai trò quan trọng của con trâu đối với sản nghiệp người làm nông. Mối gắn bó mật thiết này còn thể hiện xuyên suốt hành trình đời người: từ lúc bé thì chăn trâu, cắt cỏ giúp bố mẹ, vừa kết hợp mò cua bắt ốc hay đánh khăng, đánh thẻ… lớn lên thì điều khiển trâu cày bừa, kéo xe… khi về già, sức khỏe suy giảm thì các cụ ông, cụ bà lại tiếp tục dắt trâu, chăn nghé giúp con cháu… rồi khi qua đời, trên nấm mồ người nông dân cỏ mọc để trâu ăn… Trải qua quá trình gắn bó lâu dài, hình ảnh con trâu dần đi vào thơ ca, tục ngữ ca dao của người bình dân cùng những tác phẩm văn học. Trong tác phẩm Lục súc tranh công, phần quan trọng nhất dành cho trâu, non một trăm câu, cũng là phần hay nhất, tác giả khuyết danh đã phác họa rõ nét chân dung, đức tính của trâu như dễ nuôi, có nhiều công lao đối với việc giúp con người sản xuất, có nhiều lợi ích kinh tế, đặc biệt thịt trâu, sừng trâu được dùng trong những chuyện lớn chuyện nhỏ của đời người.

Nhưng có lẽ chính quá trình lao động bên nhau cùng những nét tương đồng về số phận, tính cách giữa người nông dân và con trâu mới là yếu tố quan trọng khiến cho trâu và người trở thành đôi bạn thân thiết, thủy chung. Con trâu hiền lành chăm chỉ, vất vả một nắng hai sương “làm không kịp thở, ăn chẳng kịp nhai” như người, trâu cũng thật thà, chất phác, chịu thiệt thòi do “trâu chậm uống nước đục”, trâu cũng vững chãi, mạnh mẽ như người, “khỏe như trâu” là lời khen tặng những ai có sức khỏe. Tuy bản tính hiền lành song trâu cũng là một loài vật dũng mãnh, thiện chiến, không dễ bắt nạt. Với sức khỏe phi thường “ốm trâu hơn khỏe bò” và cặp sừng lợi hại, trâu là một chiến binh xuất sắc. Dân gian lưu truyền câu chuyện Trâu đoàn kết giết hổ là muốn dạy người đời bài học về tinh thần đoàn kết, hiệp đồng sức mạnh để chống lại kẻ thù.

Một số vùng phía Bắc như Đồ Sơn (Hải Phòng) hàng năm có tục lệ chọi trâu. Có lẽ tục này bắt nguồn từ một câu chuyện được ghi lại trong sách Thủy kinh chú. Đây là một bộ sách viết về hệ thống sông ngòi thời cổ đại của Trung Quốc do người thời Tam Quốc (220 - 265) biên soạn (đến nay chưa biết chính xác tên của tác giả). Nội dung sách cho biết, huyện Câu Lậu ở Giao Chỉ có giống tiềm thủy ngưu (trâu ở ngầm đáy nước) thường lên bờ chọi nhau, bao giờ sừng mềm ra lại nhảy xuống nước để sừng cứng lại, rồi chúng lại lên bờ chọi nhau tiếp. Đây cũng là báo hiệu của ngày con nước theo lịch trăng.4

Đặc biệt, hình ảnh con trâu còn đóng vai trò quan trọng trong đời sống tinh thần của người dân. Chiếc sừng trâu gợi lên hình ảnh trăng lưỡi liềm biểu tượng của nước trong tín ngưỡng nông nghiệp. Lúc đón giao thừa, người ta thường xem trâu nằm hay trâu đứng, trâu ngoảnh đầu ra cửa hay vào trong để biết năm đó làm ăn có thuận lợi hay không. Con trâu còn xuất hiện trong lễ hội dân gian với vai trò là vật tế lễ linh thiêng cũng phản ánh tín ngưỡng nông nghiệp của người dân Việt Nam. Ở Bắc Giang từ xa xưa đã có tục tế trâu, thờ trâu trong các lễ hội truyền thống, việc này nói lên vị trí, vai trò quan trọng của con trâu trong nền văn hóa cổ truyền của người dân nơi này.

Đối với người Chăm, tộc người chịu ảnh hưởng lớn từ văn hóa Ấn Độ, hình tượng con trâu là vật cưỡi của thần Yama (thần chết) hoặc là con quỷ đầu trâu Mahisasura. Theo thần thoại Ấn Độ, Mahisasura là một con quỷ biến hóa giả dạng con trâu để làm hại trần thế; nữ thần Uma đã xuống trần để chiến đấu tiêu diệt trâu quỷ Mahisasura. Như vậy, họ cũng coi con trâu đại diện cho thế giới âm của người chết.

Với người Thái, con trâu đóng một vai trò rất quan trọng trong sản xuất lẫn đời sống tinh thần với câu tục ngữ “Con trâu là cái nền nhà”. Khi Tết đến, họ thường cho trâu ăn bánh chưng, lá dong... Trong tập tục cưới xin của người Thái cũng có sự hiện diện của hình ảnh con trâu. Tiền nạp đặt trong tục cưới truyền thống của đồng bào Thái: Nén bạc được gọi là “Trâu nằm”, tiền thay nén bạc được gọi là “Trâu đứng”. Ví nén bạc với trâu có nghĩa là coi trâu quý như nén bạc.

Cũng giống như vậy, con trâu gắn liền với lễ tục của nhiều cư dân bản địa ở vùng Trường Sơn, Tây Nguyên như M’nông, Cơ Ho, Gia Rai, Cơ Tu… Từ xưa, họ đã nhận con trâu làm vật tổ trong tín ngưỡng tô tem (totemism). Họ cũng thường dùng trâu để giải quyết các việc lớn trong gia đình, dòng họ và cả buôn làng: Mua chiêng bằng trâu, mua ché bằng trâu, dựng nhà, cưới gả, các lễ hội mừng được mùa hàng năm cũng bằng trâu. Trong luật tục, những tội trạng vi phạm nghiêm trọng các quy định của cộng đồng như xúc phạm thần linh, làm những điều kiêng cữ, loạn luân đều dùng trâu để phạt vạ hoặc cúng xóa tẩy tội lỗi.

Trong ngôn ngữ nghệ thuật tạo hình của một số tộc người, hình ảnh được sử dụng làm chủ đạo vẫn là con trâu. Người Sán Chay xây dựng nhà ở có kết cấu như một con trâu thần (thủy ngưu). Bốn cột chính tượng trưng cho 4 chân, rui mè như là xương sườn, nóc là sống lưng. Thùng cám được đặt ngay chân cột chính, cạnh cửa ra vào chính là dạ dày của trâu thần, người và gia súc bám vào đó mà sống. Bởi vậy, đây là chỗ linh thiêng trong nhà, là nơi thờ thần nuôi của gia đình. Đối với người Cơ Tu, trâu cũng là một hình tượng chủ đạo trong mô típ trang trí truyền thống. Hình tượng trâu không chỉ mang ý nghĩa tâm linh mà còn là biểu tượng của niềm hy vọng đạt đến cuộc sống sung túc, giàu có. Trên hai đầu bậc cấp bằng gỗ khi bước lên gươl (nhà cộng đồng) có hai đầu trâu nhìn chính diện với cặp sừng cong, gờ nổi cao ở hai bên, cái đầu hơi cúi xuống, đôi mắt buồn bên cạnh hai tai được cách điệu cụp xuống. Trên nóc gươl, cặp sừng trâu được đặt ở đầu hồi. Ngôi nhà là biểu tượng cho hình ảnh con trâu với toàn bộ cấu trúc là sự mô phỏng hình dáng con trâu với bốn chân cao có đế vững, mình tròn, sóng lưng oằn xuống với những đốt gai sống nhấp nhô. Bộ xương là hình ảnh của bộ sườn nhà với sống lưng là đòn nóc, các xương sườn là hệ thống vì kèo. Trên đỉnh của ngôi nhà có hai vòng cùng hướng vào nhau như hai cái sừng. Trên các tấm ván thưng dọc liên kết khung nhà, ở hai đầu tấm ván, người ta thường tạc hình sừng trâu, đầu kỳ đà với đường nét tạo hình uyển chuyển. Kiểu kiến trúc này một lần nữa được lặp lại khi người Cơ Tu dựng nhà mồ cho những người đã khuất. Như vậy, con trâu, với người Cơ Tu, là biểu tượng cho sự hoàn hảo, mong ước vươn đến cuộc sống an lành, giàu sang, no ấm.
 

Tranh dân gian Đông Hồ - Ảnh: internet



Hình ảnh con trâu còn được các nghệ nhân dân gian thể hiện độc đáo qua nghệ thuật tạo hình dân tộc như tranh dân gian, điêu khắc,... Con trâu trong hội họa Việt Nam được thể hiện từ những nét in khắc dung dị của tranh dân gian Đông Hồ đến nét vẽ hiện thực, tượng trưng và bán trừu tượng. Trâu là biểu tượng của sự cần cù, chăm chỉ, cực nhọc và khỏe mạnh. Trong tranh Đông Hồ còn ghi nhận hình ảnh con trâu đi sát với sinh hoạt làng quê, với những chú bé mục đồng để tóc chỏm thổi tiêu trên lưng trâu giữa những cánh đồng lúa chín vàng, hay bên những lũy tre xanh có những con trâu đang thong dong nhai cỏ sau những giờ làm lụng vất vả. Có thể nói, con trâu luôn gắn với nét văn hóa đồng quê bình dị, mộc mạc của những thôn xóm sau lũy tre làng. Sau này hình ảnh con trâu cũng đi vào hội họa Việt Nam với các tác phẩm của nhiều họa sĩ như Nguyễn Sáng với Chọi trâu, Nguyễn Tư Nghiêm với Con nghé, Nguyễn Tiến Việt với Hơi ấm vùng cao

*

Hình ảnh con trâu hiện diện trong nhiều nền văn hóa trên thế giới. Ở mỗi nền văn hóa, con trâu lại có những vai trò khác nhau trong đời sống vật chất lẫn tinh thần. Đặc biệt, ở những vùng có nền văn minh nông nghiệp lúa nước lâu đời, trâu còn gắn với một loạt những phong tục, lễ hội như chọi trâu, thi trâu, tạ ơn trâu... Đồng thời, con trâu cũng đi vào nghệ thuật, trở thành đề tài, nguồn cảm hứng phong phú của văn học, hội họa, điêu khắc… như một lẽ tự nhiên. Với người Việt, trâu không chỉ là vật nuôi mà còn là người bạn thân thiết “một nắng hai sương” với người nông dân. Trong ký ức của mỗi người Việt vẫn luôn có một hình ảnh chú bé chăn trâu thổi sáo hay âm vang bài ca dao “Trâu ơi ta bảo trâu này”…

Đ.T.T
(TCSH384/02-2021)

------------------
1. https://vi.wikipedia.org/ truy cập ngày 26/11/2020.
2, 3. Jean Chevalier, Alain Gheerbant, Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới, (Đà Nẵng: Đà Nẵng - Trường Viết văn Nguyễn Du, 2002), 91.
4. Lịch Đạo Nguyên (chú), Thủy kinh chú sớ, (Huế: Thuận Hóa - Hà Nội: Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông Taây, 2005).  




 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGÔ TỰ LẬP1.Platon nói rằng không thể có sự bình đẳng của những kẻ vốn không bình đẳng về mặt năng lực tự nhiên. Đó là xã hội người, nhưng chúng ta cũng có thể nói tương tự như vậy về xã hội từ ngữ.

  • ĐÀO DUY HIỆP    “Hội làng mở giữa mùa thu     Giời cao gió cả giăng như ban ngày”                                            (Nguyễn Bính)

  • YURI BONDAREVTên tuổi của nhà văn Nga Yuri Bônđarép rất gần gũi với bạn đọc Việt Nam qua những tác phẩm nỗi tiếng của ông đã được dịch ở ta vào thập kỷ 80 như: "Các tiểu đoàn xin chi viện", "Tuyết bỏng", "Bến bờ", "Lựa chọn", "Trò chơi"... Là một trong những nhà văn Xô Viết hàng đầu miêu tả hùng hồn và chân thực chủ nghĩa anh hùng cách mạng của quân và dân Liên Xô trong cuộc chiến tranh vệ quốc thần thánh chống phát xít Đức 1941- 1945, Bônđarép đã được phong Anh hùng lao động xã hội chủ nghĩa, được tặng giải thưởng Lênin, các giải thưởng Quốc gia, giải thưởng Lép Tônxtôi và M.Sôlôkhốp, giải thưởng toàn Nga "Xtalingrát"...

  • TRẦN ĐÌNH SỬVăn học Trung Quốc trong cơ chế thị trường đã có những biến đổi khá lớn. Theo các tác giả của sách Văn học Trung Quốc thế kỷ XX xuất bản tại Quảng Châu năm 1988 có thể nắm được một đôi nét diện mạo, chứng tỏ văn học Trung Quốc không còn có thể tồn tại theo phương thức cũ. Cơ chế thị trường đã làm cho nhà văn và nhà phê bình phải suy tính lại về sách lược sinh tồn và phương hướng phát triển nghề nghiệp.

  • ĐOÀN TUẤNThạch Lam qua đời cách đây đã hơn nửa thế kỉ. Ông để lại cho chúng ta một khối lượng tác phẩm không lớn nhưng chúng đã trở thành một mẫu số vĩnh hằng trong văn học Việt Nam. Tiếc rằng chúng ta đã không thể lưu giữ một bức chân dung nào của Thạch Lam. Thậm chí mộ ông được chôn cất nơi nào, cũng không ai biết.

  • NHẬT CHUNG       (Đọc bài thơ XÓM LỤT của anh Phạm Xuân Phụng)Anh Phụng là bác sĩ ở Bệnh viện Trung ương Huế. Tôi tìm hết trong tuyển tập HAI THẬP KỶ THƠ HUẾ, chỉ duy nhất bài thơ này viết về cảnh lụt lội hàng năm vẫn xảy ra ở mảnh đất nghèo khó. Trong những ngày đau buồn, khi nước vừa rút, trắng bợt trước mắt tôi những bài thơ tình èo uột nỉ non ẻo lả, và đứng dậy trước mắt tôi một bài thơ XÓM LỤT.

  • PHONG  LÊBến không chồng - Giải thưởng Hội Nhà văn năm 1991 đưa nhanh Dương Hướng lên một vị trí cao trong thành tựu văn học Đổi mới. Không thuộc đội ngũ “tiền trạm” xuất hiện từ đầu những năm 80 như Ma Văn Kháng, Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu và Nguyễn Mạnh Tuấn (sinh năm 1948) - người cùng thế hệ với anh (sinh 1949), đến tuổi 40 mới bắt đầu trình làng với tập truyện ngắn Gót son (1989), thế mà chỉ 2 năm sau, Dương Hướng bỗng trở thành một “tên tuổi” với Bến không chồng, góp mặt cùng Mảnh đất lắm người nhiều ma của Nguyễn Khắc Trường, Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh làm nên một bộ ba sáng giá trong văn học mở đầu thập niên 90, năm năm sau khởi động của công cuộc Đổi mới.

  • HÀ QUANG MINHLTS: Liệu có phải văn hóa chỉ đơn thuần là văn hóa hay nói cách khác là chỉ chứa đựng các yếu tố văn hóa không? Câu trả lời chắc chắn là không. Văn hóa mang cả trong nó tính chính trị và kinh tế. Trong khuôn khổ bài viết này, chỉ nhắc tới tính kinh tế trong văn hóa mà thôi nhưng hy vọng nó sẽ đóng góp nhiều cho công cuộc xây dựng một xã hội văn minh hơn, công bằng hơn.

  • ĐỖ LAI THÚYVề Kinh Bắc với những hội hè, chùa chiền, với đồng chiều cuống rạ, dây bìm bìm, bí lông tơ, giun đất, con gà trụi, châu chấu.. làm người đọc nhớ đến dòng thơ viết về nông thôn, nhất là thơ Nguyễn Bính. “ Trong các nhà thơ cùng thời viết về nông thôn như Bàng Bá Lân, Anh Thơ, Đoàn Văn Cừ... có lẽ chỉ có Nguyễn Bính là nhận thức sâu sắc được sự thay đổi của thôn quê trước “ cuộc xâm lăng” của đô thị.

  • TRẦN VĂN TOÀN - NGUYỄN XUÂN DIÊN1. Ảnh hưởng của Thơ Đường đối với Thơ Mới là một vấn đề từ lâu đã được đề cập tới. Ngay từ năm 1942, Hoài Thanh- Hoài Chân trong Thi nhân Việt Nam mặc dù giành nhiều trang để miêu tả ảnh hưởng của thơ Pháp (đặc biệt là trường phái Tượng trưng) nhưng các ông đã trân trọng và có một chút hứng thú đặc biệt về ảnh hưởng của Thơ Đường đối với Thơ Mới (điều này được bộc lộ qua công phu miêu tả, khảo cứu và cụ thể hơn từ chính số lượng trang viết). Khi phân chia các dòng mạch Thơ Mới, Hoài Thanh- Hoài Chân nói tới dòng mạch chịu ảnh hưởng của thơ Pháp, dòng mạch mang tính cách Việt, đồng thời cũng nói tới dòng mạch chịu ảnh hưởng từ Đường thi.

  • HOÀNG NGỌC HIẾN…Trong thời kỳ đổi mới xuất hiện nhiều tác phẩm cảm hứng phê phán rất mạnh. Có những quan điểm và giọng điệu phê phán rất khác nhau: xót xa và lo thương, căm uất và hằn học, tỉnh táo và điềm đạm... Cảm hứng phê phán mang tinh thần hài hước khoan hòa sẽ tạo một vị trí đặc biệt cho Nguyễn Việt Hà trong văn xuôi Việt Nam đương đại…

  • ALEXANDER GENISTrên thị trường Mỹ đã xuất hiện những cuốn sách điện tử đầu tiên. “Softbook” - một đĩa điện tử có màn hình bọc da. Sức chứa - 100 000 trang, trọng lượng - 15 kg, giá cả - 300 đôla cộng 10 đôla kết nối mỗi tháng. “Paketbook” giá 500 đôla, nhưng đi kèm với nó phải có máy tính cá nhân. “Dedicate Reader” - một sổ tay điện tử. Nó giống như một cuốn sách thực sự, có một màn hình kép chứa các bản vẽ, bản đồ, sơ đồ, bảng biểu. Giá là 1500 đôla. Như kinh nghiệm cho thấy, không ai thích đọc văn bản theo màn hình, vì thế tại viện nghiên cứu “Media-lab” người ta đang tìm cách chế tạo thứ “mực điện tử” - những cái bao hết sức nhỏ có thể tùy theo cường độ và hướng của dòng điện sắp xếp lại với nhau để tạo thành văn bản. Theo cách đó, gần như loại sách bằng giấy thông thường có thể được in lại - thay một nội dung này bằng một nội dung khác. Tờ “New York Times” viết: “Ngay giờ đây đã thấy rõ sách điện tử là điều tất yếu. Nếu như không phải là sự thay thế sách in, thì cũng là sự luân phiên nó”. (Theo báo chí)

  • TRẦN ANH PHƯƠNGCầm trên tay tập thơ "Người hái phù dung" của Hoàng Phủ Ngọc Tường tôi như đọc với chính mình giữa đêm khuya lặng lẽ bên ngọn đèn. Cảm nhận đầu tiên về thơ anh không phải thơ để đọc giữa chốn đông người hay ở trong hội trường lớn, thơ anh chỉ đến với người đọc khi chỉ còn lại một mình đối diện với chính mình, tìm lại mình trong những con chữ lan toả như từng đợt sóng, xâm chiếm choáng ngợp lòng người...

  • TRẦN THIỆN KHANH Inrasara nhập cuộc văn chương từ rất sớm. Ngòi bút của Inrasara chạm được vào những vấn đề cốt tử của nghệ thuật. Inrasara đã sống thực sự với đời sống văn chương đương thời.

  • HUYỀN SÂM - NGỌC ANH 1. Umberto Eco - nhà ký hiệu học nổi tiếng.Umberto Eco chiếm một vị trí rất đặc biệt trong nền lý luận đương đại của Châu Âu. Ông là một triết - mỹ gia hàn lâm, một nhà ký hiệu học uyên bác, một tiểu thuyết gia nổi tiếng và là giáo sư danh dự của trường Đại học Bologne ở Italia. Tư tưởng học thuật của ông đã tác động mạnh mẽ, tích cực đến đời sống trí tuệ của sinh viên và giới nghiên cứu trong suốt nửa thế kỷ qua. Ông có mặt trong danh sách của hai mươi nhà tư tưởng đương đại lớn nhất thế giới, và cũng là ứng cử viên thường trực của Viện Hàn lâm Thụy điển về việc bình chọn giải Nobel văn học.

  • ĐỖ NGUYỄN VIỆT TƯ         (Nhân đọc thơ Hoàng Vũ Thuật)Trong con người cũng như trong vũ trụ luôn luôn hiện diện một mâu thuẫn bất biến, nhờ cái khối mâu thuẫn này mà nó tồn tại, phát triển và trở nên thống nhất. Con người luôn đi tìm chính mình trong một cuộc phiêu lưu vô định, không bao giờ bằng lòng với những cái đã có, bản ngã lúc nào cũng thôi thúc sáng tạo để tìm ra cái mới. Nhà thơ luôn đồng hành với cuộc phiêu lưu của những con chữ để đi đến những miền đất lạ, những vùng cảm xúc.

  • NGUYỄN KHOA BỘI LANSau mấy tháng mưa tầm tã và lạnh thấu xương, qua đầu tháng chạp âm lịch, toàn khu Hạ Lào bắt đầu tạnh. Mặt trời lại hiện ra đem ánh sáng sưởi ấm những khu rừng bạt ngàn từ Trường Sơn lượn xuống. Ở các suối nước không còn chảy như thác đổ, ở Xê Công dòng nước cũng đã trở lại hiền hòa. Các con đường lớn, đường nhỏ bắt đầu khô ráo.

  • TRẦN ĐƯƠNGTôi được làm quen và có quan hệ cởi mở với nhà thơ Tố Hữu từ mùa thu năm 1973, sau khi ông dẫn đầu Đoàn đại biểu Đảng ta đi dự Đại hội đại biểu Đảng Cộng sản Đức (DKP) họp tại thành phố cảng Hăm-bugr). Từ  miền Tây, ông sang Béc-lin, Cộng hòa Dân chủ Đức, theo lời mời của Bộ chính trị Đảng xã hội chủ nghĩa thống nhất Đức (SED) với mục đích thăm, nghiên cứu và trao đổi về công tác tư tưởng giữa hai Đảng.

  • TRẦN THÁI HỌCĐến nay, vấn đề giá trị nghệ thuật không còn là vấn đề thời sự được nhiều người trong giới phê bình quan tâm bàn cãi. Sự lắng lại trong không khí phê bình về vấn đề này, vốn đã trải qua một thời kì tranh luận sôi nổi kéo dài hàng chục năm trên văn đàn gắn liền với những quan điểm triết học và mỹ học khác nhau, thậm chí đối lập nhau.

  • HÀ VĂN THỊNH Trên trái đất này, có lẽ chỉ có các nhà thơ mới quan niệm cuộc đời là một trò chơi. Ngay cả Thánh Kinh, khi bàn về lẽ khởi - tận của kiếp người cũng phải than: thân cát bụi trở về cát bụi. Lời nguyền đó là tiếng kêu bi thương từ sâu thẳm của hàng triệu năm đau đớn để sống và, để chết. Từ ngày đầu tiên sinh ra loài người, Adams  đã phải dắt díu Éva trốn chạy khỏi Thiên Đường trong nước mắt và uất hận; đau đớn và tuyệt vọng; cô đơn và sỉ nhục... Đó là những điều ngăn cản việc biến cuộc đời thành một trò chơi.