Hình ảnh bậc hiền triết Hồ Chí Minh qua thơ Chế Lan Viên

09:03 18/05/2012

ĐOÀN TRỌNG HUY  

Trong nhiều tư cách, lãnh tụ Hồ Chí Minh còn được vinh danh là một triết gia. Hơn thế nữa, là “triết gia vĩ đại” như đánh giá của một học giả nước ngoài qua Hội thảo Di sản Hồ Chí Minh trong thời đại ngày nay vào tháng 5/2010.

Ảnh tư liệu Wikipedia

Chế Lan Viên, sau ngày Bác mất đã khẳng định:

Đây cũng là nhà hiền triết hiểu chỗ đến, chỗ đi sự vật.

Hiền triết là triết gia có những hiểu biết cao sâu và được người đời tôn sùng.

Một cách chính xác, nên coi Người là triết nhân hơn là triết gia.

Triết gia là người làm triết học. Triết nhân là người có tư cách triết gia, có triết lý và sống theo quan niệm triết lý nhưng không thuyết lý triết học. Cuộc đời và sự nghiệp của Người là một pho sách quý triết học, là một tuyên ngôn cho chủ thuyết triết lý. Đó là cơ sở cốt lõi nhất để đúc rút những trước tác triết học. Triết học qua một con người là như thế.

Qua Hoa trước lăng Người và thơ viết về Bác trong Di cảo thơ, Chế Lan Viên làm chúng ta cảm nhận rõ hình ảnh nhà hiền triết lớn Hồ Chí Minh.

Hồi 1946 Bác Hồ qua Pháp, nhà cầm quyền muốn khoe thanh thế quân lực để uy hiếp, mời Người dự duyệt binh, diễu binh và tham quan quân sự. Có một bức ảnh tuyệt vời: Hồ Chí Minh xòe bàn tay che nòng súng đại bác. Đó là tuyên ngôn của Người về ý chí quyết chiến, quyết thắng cũng là tuyên ngôn của Người về hòa bình chính nghĩa, phảng phất tư tưởng và triết lý của cha ông: “Đem đại nghĩa để thắng hung tàn/ Lấy chí nhân để thay cường bạo” (Bình Ngô đại cáo - Nguyễn Trãi). Chủ tịch nước không chỉ sống với tác phong giản dị, tiết kiệm, thanh bạch. An nhiên, tự tại là quan niệm sống, là lẽ sống đầy ý vị triết lý của Người.

Dinh thự vị nguyên thủ quốc gia có một không hai trên thế giới:

…Ngôi nhà sàn giữa vườn hoa mộc

…Cái nhà sàn ở lẩn trong hoa

…Ngôi nhà sàn nằm yên trong hoa mộc, hoa ngâu.


                                                (Bể và Người)

Hơn một lần nhà thơ khắc họa ngôi nhà của Bác.

Ngôi nhà sàn đã được hình tượng hóa, trừu tượng hóa và lung linh, hư ảo hóa… trong “Cõi Bác” chứa đựng triết lý sống của một vị “tiên phong đạo cốt”. Bác Hồ yêu thiên nhiên, một tình yêu mê đắm (Người tình nhân, Tri kỷ,…) với tất cả tâm hồn và nhận thức. Hòa nhập với tạo hóa. “Bác sống như trời đất của ta” (Tố Hữu). Người thể hiện triết lý của phương Đông; “Thiên - Địa - Nhân hợp nhất”. Có sự hài hòa giữa con người và thiên nhiên - sự hài hòa của tiểu vũ trụ đại vũ trụ. Cốt lõi của minh triết Hồ Chí Minh là thuyết nhân hòa. Người rất coi trọng nhân hòa, đặc biệt là trong quan hệ nhân gian, nhân thế. Tức là ngoài quan hệ trong tự nhiên, còn và chủ yếu còn là quan hệ xã hội: cá nhân và cộng đồng, con người quốc gia và quốc tế. Với ý nghĩa ấy, ngôi nhà sàn không chỉ là nơi Người ở, sống và làm việc. Đó là một căn cứ của nhà triết học: Tự nơi đây, mắt Bác dõi vô cùng/ Với bốn bể của đời, không cách trở… Cái nhà sàn ở lẩn trong hoa/ Vẫn không ngớt lắng triều nghe nhịp bể”.

Toàn bộ lối sống, cuộc sống, cuộc đời trần thế của Hồ Chí Minh, từ ăn, ở, mặc, sinh hoạt đến hoạt động, hành xử… là một tuyên ngôn triết lý - một triết lý vô ngôn. Chỉ riêng một vật dụng rất bình thường thậm chí tầm thường “Cái quạt mát làm bằng lá cọ” cũng nói lên bao ý nghĩa triết lý. Ngoài thể hiện cách sống hòa hợp tự nhiên: “Áo mở cúc cho gió hè thổi mát” còn là biểu hiện của một đạo sống: “Người sống thu nhỏ lại, giấu mình đi, không làm phiền ai hết cả”. Cái quạt lá có thể tiết kiệm điện, khi có quạt máy đã đành, nhưng lại chủ động cả khi mất điện. Triết lý là ở ý nghĩa này: con người có thể tạo ra gió ở bất cứ nơi đâu, ở bất cứ chỗ nào. Hoặc khái quát hơn, như một ý thơ “Bàn tay ta làm nên tất cả” để nói về sức người, trí tuệ người. Đó là một triết lý nhân sinh đề cao con người: con người vượt lên hoàn cảnh, con người cải tạo hoàn cảnh để làm cho hoàn cảnh trở nên nhân văn hơn. Triết lý ấy mang sức mạnh kỳ diệu. Ý chí anh hùng cá nhân biến hóa thành vô địch qua con người lãnh tụ: “Và Bác đã chiến thắng tên khổng lồ điện tử/ Nhờ màu hồng ngọn cờ, sắc đỏ trái tim” (Người chẳng có gì riêng). Cả cuộc đời, sự nghiệp Hồ Chí Minh là minh chứng hùng hồn, rạng rỡ mãnh liệt và thông điệp sâu sắc cho triết lý sống.

Trong lại mắt người, hồng lên chân lý
Luận điểm lại sáng ngời như lộc biếc đầu cây.


Tuy thiên về triết lý nhân sinh hành động nhưng trong những trường hợp cần thiết, Người vẫn “lập ngôn”, “lập thuyết”. Nhưng đó là cách nói cũng như cách viết nhất quán một đời của Người là kiệm ngôn. Có những lời phát biểu ngắn gọn, giản dị, dễ hiểu nhưng cô đúc súc tích ý nghĩa, có sức nén rất cao mà ta có thể gọi đó là danh ngôn. Và cao hơn thế còn là châm ngôn - tức câu nói có tác dụng hướng dẫn về đạo đức, về cách sống - hoặc cách ngôn - câu nói ngắn gọn được lưu truyền, có ý nghĩa giáo dục về đạo đức.

Kiệm ngôn là một quan niệm cực kỳ sâu sắc trong trường hợp Hồ Chí Minh. Ấy là cái đúc kết qua nghìn vạn trải nghiệm là sự cảm nhận nghiền ngẫm, suy tính đã quyết liệt, kỳ cùng: “Vầng trán nào nghĩ suy dữ dội nhất ngày nay về các bãi gieo và các bãi chiến trường?/ Trái tim nào giải đáp đúng nhất cho ta những câu hỏi chiến tranh và thời đại hỏi? Lặng lẽ, lặng lẽ từng bước, chân Bác qua đây như vạch một con đường”. Người nói ra những ý tưởng là những thông tuệ tinh túy của bậc đại trí, đại dũng: “Ấy là cái trí tuệ anh hùng, cái dũng cảm tuyệt với trí lực của nhân dân”.

KHÔNG CÓ GÌ QUÝ HƠN ĐỘC LẬP TỰ DO là lời ca chiến đấu và chiến thắng đã mang tính nhân loại. Trong một cuộc trả lời phỏng vấn, Hồ Chí Minh dẫn Luận ngữ. Tăng Tử trả lời “Tất nhiên”. Chỉ một từ mà thể hiện cả nghị lực và toàn bộ kiến thức. Người lại dẫn chuyện một vị tướng của Napôlêông đệ nhất bị bao vây ở Oatéclô. Kẻ địch dụ hàng, ông đáp cộc lốc: “Cứt”. Người bình luận: “Câu nói ấy chỉ có một từ, lại là một từ tục tĩu. Nhưng trong tình thế nghiêm trọng ấy của vị tướng, nghìn lời nói khác cũng không thể nào thể hiện được lòng dũng cảm và sự khinh bỉ của ông với kẻ thù”. Với Hồ Chí Minh, ta hãy nghe một đoạn đối thoại:

- …Thưa Chủ tịch, Chủ tịch ghét gì nhất?

- Điều ác.

- Thưa Chủ tịch, Chủ tịch yêu gì nhất?

- Điều thiện.

- Thưa Chủ tịch, Chủ tịch sợ gì nhất?

- Chẳng sợ gì cả. Một người yêu nước không sợ gì hết và nhất thiết không được sợ gì.


                        (Trả lời phỏng vấn của Báo Frères D’armes)

Hơn nữa cách nói kiệm ngôn còn mang phong cách của ngôn ngữ dân tộc.

Với dân tộc ít lời, Người ít nói
Thấy nhiều trời bể non sông, giờ phải nói chi nhiều.

                                    (Đọc văn Người)

Triết lý ấy - toát ra từ tư tưởng và đạo đức của Người. Đậm đà là triết lý nhân sinh - triết lý của Con người, triết lý vì Con người, cho Con người: cốt lõi của nó là chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh. Chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh hình thành trên cơ sở học thuyết Mác về con người và giải phóng con người và truyền thống nhân ái dân tộc với chủ nghĩa nhân đạo của văn minh phương Đông và phương Tây. Mục tiêu cao cả của chủ nghĩa nhân văn ấy là giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội và giải phóng con người. Con người được quan niệm là giá trị quý nhất, con người vừa là mục tiêu vừa là động lực chủ yếu của cách mạng.

Nhân loại biếc màu xanh Người để lại
Trong thế giới bạo tàn này Người là những bóng cây xanh


Chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh chính là tư tưởng triết học của người. Đó là cơ sở cho triết lý nhân sinh Hồ Chí Minh - hiện thân sinh động của những tư tưởng sáng tạo về giải phóng con người, phát huy tối đa sức mạnh con người để trở nên vô địch.

Cũng có thể coi đó là triết lý tình nghĩa: minh triết Hồ Chí Minh là sự kết hợp của trí tuệ và đạo đức. Người từng viết: “Hiểu chủ nghĩa Mác-Lênin là phải sống với nhau có tình có nghĩa”. Hồ Chí Minh nói: “Rồi đây bốn bể một nhà”. Cổ điển và hiện đại nữa. Thấu triệt quan niệm “Vạn chúng nhất tâm” của Đức Phật, ý tưởng “Thế giới đại đồng” của Khổng Tử và Tự do, Bình đẳng, Bác ái của Chúa Giêsu (Jesus).

Hồ Chí Minh đã đi qua các triết thuyết tôn giáo để có thể từ đó chọn lọc yếu tố tích cực tạo dựng một triết thuyết mới của cách mạng vô sản triết thuyết nhân sinh hiện thực và hiện đại.

Tình thương của Người là bóng mát cây xanh
Tỏa đến đâu che lòng ta đến đó


Triết thuyết Hồ Chí Minh được đúc kết từ thực tiễn, là triết lý thực tiễn. Ba mươi năm bôn ba hải ngoại tìm đường cứu nước là một thời gian rất đáng kể trong đời để ngộ ra chân lý cách mạng.

Biện chứng đã vỡ lòng trong bão táp.

Bể và Người
là một thuyết minh cho triết gia Hồ Chí Minh, cũng tức là thể hiện cốt cách, ý tưởng, lập luận, thuyết lý của Người. Con người ấy từng “lênh đênh theo sóng bể” khắp đại dương châu lục. Qua Những đất tự do, những trời nô lệ để phát hiện Những con đường cách mạng đang tìm đi. Bể đối với Người là đa nghĩa. Là “bể cả” trùng dương mênh mông cũng là “bể loài người” là “nhân loại - bể”. Nhưng quan trọng hơn hết là “bể triết học” trong nhận thức của một thiên tài. Qua bể là bài học về duy vật biện chứng và cả duy vật lịch sử:

Bác nghe bể và tìm ra quy luật
Bể lặng im nuôi dông bão bất thần
Hưng vong thế vẫn mỗi ngày hồi phục
Bể nghìn đời mà mãi mãi thanh tân


Mang phong cách độc đáo với thủ pháp nghệ thuật đặc sắc về tư duy, Chế Lan Viên dễ dàng phát hiện phép biện chứng tâm hồn qua cách nhìn sự vật, hiện tượng “giữa hai bề đối lập” của Hồ Chí Minh.

…Đất nước thừa người làm thơ mà thiếu người viết sử

…Để cái sống đau gần như cái chết

…Giấu niềm đau trong một ngày vui

…Vào máu lửa mà giành hoa hạnh phúc


Ta như được nghe lý luận của Người về tính phổ biến của mâu thuẫn “Cái gì cũng có mâu thuẫn, vì cái gì cũng có biến âm, dương, có sinh, có tử, có quá khứ, có tương lai, có cũ, có mới. Đó là những mâu thuẫn sẵn có trong mọi sự vật”. Đúng là cách nói của nhà hiền triết phương Đông có tinh thần của Kinh Dịch, ý tưởng của giáo lý Phật.

Tuy nhiên, cao hơn hết là đặc điểm của một dạng triết lý Hồ Chí Minh: triết lý hành động.

Ở Hồ Chí Minh, triết lý và hành động gắn liền mật thiết với nhau. Đó là triết lý hướng tới hành động, hành động theo triết lý, tự nó nói lên triết lý. Như nói ở trên, triết lý đã bao hàm xu thế hành động, không có triết lý suông. Vì vậy hành động là hành động có triết lý. Tất cả quan hệ xoắn xít, mật thiết với nhau, tạo nên triết lý hành động Hồ Chí Minh.

Cũng có thể gọi đó là triết lý thực hành: nói và làm, nói là làm, làm để nói.

Mang cốt cách hiền triết Châu Á, Hồ Chí Minh để lại pho sách triết học đồ sộ cho sự khai thác vô cùng của thiên hạ. Rất coi trọng thực tiễn nhưng cũng không xem nhẹ lý luận. Lý thuyết kết hợp thực hành để trở nên nhuần nhuyễn, thuần thục qua hành động.

Nếu triết học Hồ Chí Minh là triết học thực tiễn thì biện chứng Hồ Chí Minh là biện chứng thực hành - biện chứng vận dụng “trong bão táp” đấu tranh cách mạng. Nội dung và đặc điểm của phương pháp biện chứng Hồ Chí Minh có thể quy tụ vào mấy điểm chính:

- Biện chứng trong xử lý mối quan hệ giữa thực tiễn và lý luận, giữa cái phổ biến và cái cá biệt, giữa riêng và chung.

- Biện chứng trong xử lý mối quan hệ giữa mâu thuẫn và thống nhất của các mặt đối lập.

- Biện chứng giữa cái “bất biến” và cái “vạn biến”.

Sau ngày đất nước thống nhất, Chế Lan Viên viết Bể và Người để suy ngẫm thấm thía về tài năng tuyệt vời của Người Thủy Thủ vĩ đại: Con tàu Việt Nam qua nghìn trận phong ba/ Về đến đích ngót nửa vòng thế kỷ. Hồ Chí Minh đã học lý luận tại Đại học Phương Đông và thực tiễn trong “bão táp” cách mạng.

Cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác theo con đường Hồ Chí Minh đã lựa chọn.

Có thể nói,với phong cách suy tưởng trí tuệ, Chế Lan Viên qua thơ đã thành công đặc sắc trong việc phác họa đậm nét bậc hiền triết Hồ Chí Minh.

Đ.T.H  
(SH279/5-12)



-------------
1 - Tất cả trích dẫn trong bài viết đều lấy từ Chế Lan Viên tuyển tập (tập 1) – Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội, 1985.
2 - Tất cả nhấn mạnh trong bài là của người viết.
3 - Tất cả phát biểu, nói chuyện, diễn văn… của Chủ tịch Hồ Chí Minh là trích từ Danh ngôn Hồ Chí Minh – Thành Duy biên soạn từ Toàn tập Hồ Chí Minh do Trung tâm Nghiên cứu Quốc học - Nhà xuất bản Văn học, 2011.  









 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • FRED MARCHANTCó những vết thương chẳng thể nào lành lặn và có những nỗi đau chẳng bao giờ mất đi. Kinh nghiệm nhân loại khuyên ta không nên “chấp nhận” hay “bỏ đi” hay “vượt lên” chúng. Với một con người mà tâm hồn thương tổn vì đã làm cho người khác khổ đau hay chứng kiến nhiều nỗi đau khổ thì những câu nói như thế hoàn toàn vô nghĩa.

  • BÍCH THU          (Đọc thơ Dòng sông mùa hạ của Hoàng Kim Dung. NXB Hội Nhà văn, 2004)Nhìn vào tác phẩm đã xuất bản của Hoàng Kim Dung, tôi nhận thấy ở người phụ nữ này có sự đan xen giữa công việc nghiên cứu khoa học với sáng tạo thi ca. Ngoài bốn tập thơ và bốn cuốn sách nghiên cứu về nghệ thuật đã in, với tập thơ thứ năm có tựa đề Dòng sông mùa hạ mới ra mắt bạn đọc, đã làm cán cân nghiêng về phía thơ ca.

  • ĐÔNG HÀVăn hoá và văn học bao giờ cũng có một mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Có thể thấy rằng văn học là một bộ phận của văn hoá, nó chịu sự ảnh hưởng của văn hoá. Khi soi vào một thời kì văn học, người đọc có thể thấy được những khía cạnh về phương diện đời sống văn hoá tinh thần của một thời đại, một giai đoạn của xã hội loài người.

  • HÀ KHÁNH LINHViết được một câu thơ hay có khi phải chiêm nghiệm cả một đời người, hoàn thành một tập truyện, một tập thơ là sự chắt chiu miệt mài suốt cả quá trình, sau Đại hội nhà văn Việt Nam lần thứ VII Lê Khánh Mai liên tiếp trình làng tập thơ "Đẹp buồn và trong suốt như gương" (Nhà xuất bản Hội Nhà văn) và "Nết" tập truyện ngắn (Nhà xuất bản Đà Nẵng).

  • NGUYỄN TRỌNG TẠOCó người làm thơ dễ dàng như suối nguồn tuôn chảy không bao giờ vơi cạn. Có người làm thơ khó khăn như đàn bà vượt cạn trong cơn đau sinh nở. Có người không đầy cảm xúc cũng làm được ra thơ. Có người cảm xúc dâng tràn mà trước thơ ngồi cắn bút. Thơ hay, thơ dở, thơ dở dở ương ương tràn ngập chợ thơ như trên trời dưới đất chỉ có thơ. Thơ nhiều đến ngạt thở chứ thơ chẳng còn tự nhiên như hơi thở mà ta vẫn hoài vọng một thời.

  • THẠCH QUỲSuốt đời cần mẫn với công việc, luôn mang tấm lòng canh cánh với thơ, vì thế, ngoài tập “Giọng Nghệ” in riêng và bao lần in chung, nay Ngô Đức Tiến lại cho ra tập thơ này.

  • Trong đội ngũ những người hoạt động văn nghệ tại Thừa Thiên Huế, bên cạnh các Hội chuyên ngành trực thuộc Hội Liên hiệp Văn học nghệ thuật (như Hội Nhà văn, Hội Mỹ thuật, Hội Âm nhạc…) có một tổ chức gọi là “Chi hội Nhà văn Việt Nam tại Thừa Thiên Huế”(CHNV).

  • Hà Khánh Linh xuất thân trong một gia đình khoa bảng nổi tiếng ở Huế. Tên khai sinh của chị là Nguyễn Khoa Như Ý. Năm 20 tuổi, đang học dở dự bị đại học Khoa Học Sài Gòn thì chị quyết định bỏ học để gia nhập quân Giải phóng. Từ đó cho đến khi nghỉ hưu chị đã từng đi dạy, làm phóng viên Đài phát thanh Giải phóng, Đài phát thanh Bình Trị Thiên, làm biên tập, Thư ký Tòa soạn rồi Phó tổng biên tập Tạp chí Sông Hương. Chị quen biết và giao tiếp khá rộng từ các vị quan chức đến các vị đại đức, linh mục, trí thức... cùng những năm tháng gian khổ ở chiến trường Trị Thiên, những chuyến đi thực tế ở Căm pu chia... đã giúp chị có một vốn sống hết sức phong phú.

  • Nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ sinh ra và lớn lên bên bờ sông Kiến Giang thơ mộng. Nhưng tuổi thơ của chị chứa đầy buồn đau và nước mắt: Mẹ không có cửa nhà/  Em đứa trẻ vắng cha/ Như mầm cây trên đá/ Biết khi nào nở hoa? Nỗi tuyệt vọng cứ ám ảnh suốt cả tuổi thơ của chị. Trong một bài thơ đầu tay chị viết: Tuổi thơ tôi như ráng chiều đỏ lựng/ Hắt máu xuống dòng sông đen.

  • Trần Thùy Mai bắt đầu được các bạn trẻ yêu thích văn chương ở Huế biết đến khi chị đang học ở trường Đồng Khánh những năm trước giải phóng (1975). Tốt nghiệp vào loại xuất sắc, chị được giữ lại làm cán bộ giảng dạy ở trường đại học Sư phạm Huế. Dạy ở trường đại học Sư phạm Huế được một vài năm, chị chuyển sang làm công tác biên tập ở nhà xuất bản Thuận Hóa. Đây là một quyết định khá táo bạo và sáng suốt. Làm việc ở nhà xuất bản, chị có điều kiện viết lách hơn.

  • LÊ HUỲNH LÂM                 (Đọc Viết bên Hộ Thành hào - thơ Nguyên Quân -, Nxb Thuận Hoá, 2009)Giữa những đổ nát hoang tàn quá khứ và hiện tại, khi mà thang giá trị bị đảo lộn, những mảnh vỡ đang vung vãi mọi nơi, tác giả lại tìm đến Hộ Thành hào để nhìn ngắm cõi lòng đang hỗn hênh mọi thứ và như chợt nhận ra niềm hy vọng mỏng mảnh, anh đã Viết bên Hộ Thành hào.

  • HOÀNG DIỆP LẠCBất chợt giữa một ngày mưa gió, nhìn những hạt nước toé lên từ mặt đất như những đoá hoa mưa. Một loài hoa của ảo giác. Có thể trong tâm trạng như vậy, Lê Tấn Quỳnh chợt hỏi:Hoa vông vangCó hay không

  • ĐINH NAM KHƯƠNG(Thơ Tuyết Nga - NXB Hội Nhà văn 2002)

  • NGUYỄN VĂN HOA1. Cuối thế kỷ 20, tôi làm cuốn sách “Tuyển tập thơ văn xuôi Việt Nam và thế giới” cùng tiến sỹ Nguyễn Ngọc Thiện (Viện Văn học Việt Nam), trong tập sách này gồm phần học thuật và phần tuyển thơ Việt Nam và Thế giới. Phần thơ Việt có nhiều tác giả sinh sống ở Huế, ngẫu nhiên-tình cờ có hai nhà thơ có thơ trong tập này, đó là Hải Bằng và Hải Trung.

  • NGA LINH NGA1. Xuất bản mười hai tập thơ, mười hai tập văn xuôi, một tập nhạc; viết mười hai kịch bản phim chân dung, hai mươi lời bình cho các phim khác, biên soạn hai mươi tập nhạc... điều thật khó tin ở một người nổi tiếng rong chơi, thích cao đàm khái luận, thường không mấy khi vắng mặt nơi những cuộc rượu của đám văn nghệ Hà Thành như Nguyễn Thụy Kha.

  • L.T.S: Trong vài năm lại đây, ở Huế, chưa có tập sách nào ra đời lại gây được “hiệu ứng ngạc nhiên” cho bạn đọc như một hiện tượng ngoài tập Thơ Trà My của Nguyễn Xuân Hoa ấn hành vào dịp kỷ niệm 30 năm ngày giải phóng Huế và Đà Nẵng vừa qua. Ngoài các bài viết giới thiệu, phê bình in trên nhiều tờ báo trung ương và địa phương, Sông Hương vẫn tiếp tục nhận được thêm các ý kiến cảm thụ về tập thơ này.Xin trân trọng giới thiệu cùng quý bạn đọc

  • NGUYỄN XUÂN HOÀNG           (Đọc tập thơ Trà My của Nguyễn Xuân Hoa)

  • YÊN CHÂU          (Đọc Thơ Trà My của Nguyễn Xuân Hoa)Giống như những cây xanh bói muộn bất ngờ cho một mùa hoa trái, thơ Nguyễn Xuân Hoa xuất hiện đột ngột như vậy. Anh không cho in rải rác đâu đó, cũng không đọc thơ ở những cuộc gặp gỡ bạn bè. Im lặng, đùng một cái cho ra hẳn một tập thơ. Thơ Trà My của nguyễn Xuân Hoa đã đến với bạn bè như vậy.

  • BÙI ĐỨC VINH            (Nhân đọc tập thơ “Cho người tôi thương nhớ”-NXB Hội Nhà văn 2004)Có một chàng thi sĩ phong tình đi lang thang vô định trên nẻo đường mưa bay gió tạt, chợt lơ đãng nhận ra mình là kẻ bị tình yêu truy nã trong bài thơ “Nhận diện” anh đã tự thú với trái tim thổn thức của mình.

  • INRASARA           (Đọc Mang, tập thơ của Phan Trung Thành, Nxb, Trẻ TP.Hồ Chí Minh, 2004.)Dòng Seine và cầu Mirabeau, cuộc tình với người tình. Sông đi và cầu ở lại, cuộc tình tan nhưng người tình thì ở lại. Mãi mãi ở lại, cùng nỗi buồn ở lại.                Con sông nào đã xa nguồn                Thì con sông đó sẽ buồn với tôi                                                (Thơ Hoài Khanh)