Hiện thực của nghệ thuật điêu khắc

09:43 31/12/2014

Một ngày nọ, khi vẽ một thiếu nữ, tôi chợt nhận ra điểm duy nhất sống động ấy là ánh nhìn như bất động của nàng. Những thứ còn lại có ý nghĩa không hơn gì cái sọ người. Người ta luôn muốn tạc nên một con người sống, nhưng điều khiến pho tượng ấy có sự sống chỉ có thể là ánh nhìn của người đó.

Alberto Giacometti, "Người rơi", 1950, chất liệu đồng.

Những tượng hình đầu người do thổ dân New Hebrides tạc rất chân thực, thậm chí hơn cả chân thực, bởi ở những pho tượng ấy toát lên ánh nhìn. Đó không phải là sự mô phỏng đôi mắt, mà thực sự, đích xác là ánh nhìn. Mọi thứ khác chỉ là khung của ánh nhìn ấy. Nếu ánh nhìn ấy, cũng có nghĩa là đời sống, là bộ phân chính, thì phần đầu người mới trở thành bộ phận chính,... phần còn lại của cơ thể chỉ mang chức năng phụ, góp phần làm đời sống con người khả hữu - một đời sống trú ngụ trong sọ người. Rồi đến một lúc nào đó, tôi bắt đầu nhìn thấy những con người trên phố cứ như thể bản chất sống của họ bị thu lại đến độ nhỏ xíu. Tôi nhìn thấy những hiện hữu sống chỉ qua mắt họ mà thôi. [1951]

Alberto Giacometti (1901-1966), con trai một họa sĩ nổi tiếng người Thụy Sĩ, đã định cư tại Paris từ năm 1922, nơi ông bắt đầu tìm hiểu lĩnh vực điêu khắc cùng với Antoine Bourdelle, một học trò của Rodin. Đến cuối những năm 1920, ông tiến hành thử nghiệm những hình thức nghệ thuật được khởi nguồn từ chủ trương tạo ra sự kết hợp tự do mà các nghệ sĩ trong phong trào siêu thực đề xuất - những người mà ông vẫn còn gắn bó cho đến giữa thập niên 1930. Sau đó, ông dấn thân vào một cuộc kiếm tìm đầy khó nhọc những phương tiện tái trình hiện hình ảnh con người trong tình huống thực của mình trong không gian - không gian mà ông ngày càng cố gắng diễn dịch trong cả tranh vẽ và tượng như một thành tố chủ động ảnh hưởng đến những cơ thể bên trong nó. Những ý niệm của ông về chủ thể - được phát triển vào cuối những năm 1930 - gần như cùng hướng với tư tưởng của các nhà hiện tượng học ở Pháp, đặc biệt là Maurice Merleau Ponty và Jean Paul Sartre, hai triết gia xây dựng những lý thuyết mới về tri nhận ảnh hưởng đến nhiều nghệ sĩ sau Thế chiến II.

Nếu người ta nỗ lực nắm bắt những gì mình nhìn thấy, càng nhiều càng tốt, thì quá trình này, dù trong khoa học hay nghệ thuật, đều giống nhau. Học giả trong bất cứ lĩnh vực nào cũng sẽ nhận thấy càng thêm những điều họ biết, càng nhiều hơn nữa những thứ họ cần phải học, và nắm bắt tri thức trọn vẹn là một điều bất khả. Hơn nữa, tri thức trọn vẹn chính là sự chết. Nghệ thuật và khoa học đều là nỗ lực để thấu hiểu mà thành công hay thất bại chỉ là thứ yếu. Cuộc phiêu lưu này mới chỉ khởi sự từ niên đại gần đây - từ khoảng thế kỉ thứ XVIII với danh họa Chardin, khi con người bắt đầu quan tâm đến nhãn quan riêng của người nghệ sĩ hơn là mục đích phục vụ nhà thờ hay đem lại khoái cảm cho vua chúa. Cuối cùng, con người được trao về cho chính mình! Người ta không thể nào diễn tả bằng ngôn ngữ cái họ cảm nhận bằng bàn tay và đôi mắt. Ngôn từ xuyên tạc ý nghĩ, sự viết bóp méo ngôn từ - rồi người ta sẽ không nhận ra chính mình nữa. Tôi không tin không gian là cái khó biểu đạt; không gian được tạo nên chỉ bằng các vật thể; một vật thể chuyển động mà không có mối tương quan với bất kì vật thể nào khác sẽ không tạo nên được những ấn tượng về không gian. Chỉ chủ đề là thứ cần xác định rõ. Không gian, hình khối, toan vẽ, thạch cao, hay đồng thiếc… có quá nhiều phương tiện cho nghệ sĩ. Điều quan trọng duy nhất là sáng tạo nên một vật thể mới truyền ấn tượng gần nhất có thể với ấn tượng được nhận về khi ta ngắm nhìn chủ thể... Điêu khắc lắng lại trong khoảng trống. Nghệ sĩ làm rỗng không gian để kiến tạo vật thể, và vật thể, theo cách hiểu thông thường, tạo nên không gian, không gian là thứ tồn tại giữa chủ đề và điêu khắc gia. [1962] Có thể người ta vẫn nghĩ chủ nghĩa hiện thực thể hiện ở sự sao chép một chiếc cốc yên vị trên mặt bàn. Thực tế, một con người không bao giờ sao chép được bất cứ cái gì ngoại trừ cái nhìn về nó đọng lại tại mỗi khoảnh khắc, cái hình ảnh sẽ trở thành ý thức. Anh không thể nào sao chép được chiếc cốc trên mặt bàn, anh chỉ sao chép được phần đọng lại của một cái nhìn... Mỗi khi tôi nhìn vào chiếc cốc, nó lại như đang tự tái tạo chính nó, nghĩa là, tính chất hiện thực của nó trở nên bất định, vì hình ảnh phóng chiếu của nó vào đầu óc tôi cũng bất định hoặc không hoàn chỉnh. Ta nhìn chiếc cốc ấy như thể nó đang biến mất, rồi lại hiện ra trong tầm mắt, rồi lại biến mất, và lại hiện ra... – nghĩa là thực sự bao giờ nó cũng nằm giữa tồn tại và không tồn tại. Đó mới chính là thứ mà ta muốn sao chép. [1963-1964] 

Alberto Giacometti
Nguồn: Hoa-Giang - Tia Sáng

(Theo Twentieth – Century Artists on Arts, ed.by Dore Ashton, NY:Pantheon Books, 1985, trang 56-57)

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • HẠNH NHITrắng và xanh. Xám và nâu. Xù xì hay trơn nhẵn. Cao lớn hay xinh xắn. Dễ gần và khó hiểu... Ngoại trừ những cảm nhận bề mặt, không phải ai cũng có thể hiểu được sự biểu đạt ngôn từ của đá mà các nhà điêu khắc gửi gắm. Nhưng kể từ khi Huế có sự xuất hiện những ký hiệu và ẩn ngữ của đá, sông Hương cũng thao thiết và dùng dằng hơn cái dùng dằng, thao thiết đã có trước khi xuôi chảy...

  • ĐẶNG TIẾN Phòng tranh Lê Bá Đảng tại Paris, mùa thu 2003, gây nhiều mỹ cảm, mà nếu cần tóm tắt trong một chữ - một chữ thôi - thì sẽ là chữ thanh.

  • CHƠN HỮU…Người nghệ sĩ, tác giả cuộc triển lãm này đã có được cái thấy phiêu hốt vượt lên trên thời gian nhân quả, hạnh phúc hay đau khổ và đã diễn tả được cái thấy ấy qua ngôn ngữ hình tượng nghệ thuật sắp đặt. Ba cái chắp tay được bố trí theo một hàng thẳng tắp trước hình ảnh một nụ cười khiến cho ta liên tưởng như trọn cả tam giới đều kính ngưỡng trước sự chứng ngộ tự tại (là nụ cười) của Đức Phật…

  • THANH LOANKhổng Tử từng nói: “Kẻ trí vui chơi sông nước, kẻ nhân vui chơi nơi núi non. Kẻ trí hiếu động, kẻ nhân trầm tĩnh. Kẻ trí thì vui vẻ kẻ nhân trường thọ” (Trí giả nhạo thủy, nhân giả nhạo sơn, trí giả động, nhân giả tĩnh, trí giả lạc, nhân giả thọ).

  • LÊ BÁ ĐẢNGNgày còn giặc, bọn chúng nó ồ ạt đem tất cả khí giới tối tân, chất độc hoá học, cho đến cả hàng rào điện tử đến Trường Sơn để ngăn cản sự đi lại của cả dân tộc ta và cố ý chia cắt đất nước ra làm hai.

  • NGUYỄN TRỌNG HUẤN Tôi không được biết Lâm Triết những ngày anh tung hoành trong thế giới hội họa miền Nam trước 1975. Nghe nói, anh đoạt được giải này, giải nọ, đã định danh, định vị trong giới nghề nghiệp đông đảo của mình. Mặt bằng giao du của anh với những người cùng trường, cùng lứa trong và ngoài nước, đã khuất hoặc còn đến bây giờ, thấy có tên nhiều người tài hoa, nổi tiếng.

  • LÊ VIẾT THỌTự nghìn năm, lụa đã hiện diện trong đời sống dân tộc Việt. Nghề tằm tang đến sớm, trong những di chỉ khảo cổ thuộc hậu kỳ đá mới, cách ngày nay khoảng 5000 năm, đã có dấu vết của vải, có dọi xe chỉ bằng đất nung. Chất liệu mỏng, nhẹ, thoáng và đẹp một cách tự nhiên, nền nã, óng ả này rất phù hợp với môi trường tự nhiên của cư dân phương nam làm nông nghiệp.

  • ĐẶNG NHẬT MINHĐầu xuân Nhâm Ngọ nhân dự khai mạc phòng tranh của một người bạn hoạ sỹ, tôi tình cờ được gặp bác Lương Xuân Nhị. Bác cho biết năm 1943 khi sang Nhật trưng bầy triển lãm tranh bác có gặp cha tôi là bác sỹ Đặng Văn Ngữ đang du học tại đấy. Bác còn giữ một số ảnh chụp với cha tôi và hẹn tôi đến nhà để biếu lại cho gia đình làm kỷ niệm.

  • PHẠM THỊ CÚCMột buổi sáng đẹp trời ngày giáp tết Nhâm Ngọ, trong chuyến "du xuân", cùng với ba chúng tôi là một lẵng hoa tươi hồng, lan, cúc... nhắm hướng Quảng Trị - làng Bích La Đông mà "thẳng tiến".

  • LÊ THỊ MỸ ÝBút kýTrong ký ức tuổi thơ tôi luôn nhớ về những buổi hoàng hôn rực cháy, những ngọn gió Lào thổi rát mặt làm quả đồi con như cũng phải oằn cong. Bao năm xa quê, gắn mình với chốn kinh thành mù sương và bảng lảng tiếng chuông chùa mỗi khi chiều sập tối, tôi vẫn luôn thao thức về những buổi hoàng hôn trên đồi nắng, tuồng như cả tuổi thơ đã chìm rơi trong ký ức xa xăm.

  • INRASARADấu hiệu chủ nghĩa hiện đại trong nghệ thuật manh nha từ Claude Monet, xuất phát từ một quan niệm. C. Monet cho rằng sự vật biến đổi theo ánh sáng và bị tác động bởi chuyển động nhanh.

  • Trong những năm gần đây cuộc sống của nhân dân ngày càng được cải thiện, nhu cầu văn hóa của xã hội xã hội chủ nghĩa ngày càng cao. Nhu cầu về vẻ đẹp hình thể biểu hiện qua các cuộc thi hoa hậu, người mẫu thời trang.

  • Đã trở thành truyền thống tốt đẹp từ nhiều năm nay, các trường Đại học Mỹ thuật Việt Nam - Thái Lan tổ chức luân phiên 2 năm một lần Triển lãm Mỹ thuật Đương đại giữa hai nước.

  • Kỷ niệm 120 năm ngày sinh của đại danh hoạ Pablo Picasso 25/10/1881 - 25/10/2001

  • Có những “Ngày của Mẹ” vào cuối thu ở phương Nam. Người xa xứ nhắn nhủ với nhau, đấy là những ngày đẹp nhất. Và họ đã trải lòng trong một không gian thư pháp có chủ đề về lòng hiếu thảo.

  • Cuộc triển lãm này nằm trong khuôn khổ triển lãm mỹ thuật 8 khu vực của cả nước năm 1998, do Hội Mỹ thuật Việt cùng các Sở VHTT và Hội VHNT địa phương phối hợp tổ chức. Với 6 tỉnh khu vực bắc miền Trung (Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên - Huế), đây là cuộc triển lãm lần thứ III.

  • Với chủ đề : “Ân tượng Huế - Việt , 1998”, Trại sáng tác Điêu khắc Quốc tế lần thứ II đã được tổ chức tại Huế từ ngày 1.11 đến 15.12.1998. Có thể nói, đối với người dân xứ Huế thì có lẽ đây là lần đầu tiên được tận mắt chứng kiến một hoạt động nghệ thuật hết sức quy mô và rầm rộ như thế này. Quy mô ở góc độ tổ chức mang tính chất quốc tế và rầm rộ ở tính chất đặc thù của thể loại nghệ thuật là điêu khắc ngoài trời.