Hành trình đến tận cùng thế tục

15:54 31/03/2009
MAI HOÀNGCẩm cù không nổi tiếng bằng một số truyện ngắn khác của Y Ban như Thư gửi mẹ Âu cơ, I am đàn bà, Đàn bà xấu thì không có quà… Không có những vấn đề hot như sex, nạo phá thai, ngoại tình… tóm lại là những sự vụ liên quan đến “chị em nhà Eva”.

Nhà văn Y Ban

Cẩm cù là một truyện vừa mang dáng dấp tự truyện. Tác phẩm này dài gần 70 trang khổ 19x13. Căn cứ vào những tình tiết trong truyện có thể khẳng định “tôi”, người kể chuyện ở đây chính là tác giả. Nhưng điều này không thực sự quan trọng vì ngay cả những độc giả chẳng biết Y Ban là ai thì câu chuyện được kể lại này vẫn thật sự ấn tượng.

Y Ban là một nhà văn kể chuyện rất có duyên. Đọc sách của chị gặp không ít sạn, lỗi mo rát, hành văn không được chau chuốt, thậm chí sơ sài, đểnh đoảng như văn nói nhưng rút cục tác phẩm của chị vẫn cứ cuốn hút. Jorge Luis Borges đã từng có nhận định thú vị về văn nghiệp của Edgar Allen Poe. Ông cho rằng muốn thấy sự lớn lao của Poe cần xem xét toàn bộ văn nghiệp của tác giả này. Còn như đọc từng trang, từng dòng thì thấy khối chỗ tầm thường, làng nhàng. Với Borges thì “cái quan trọng nhất của văn nghiệp một nhà văn là hình ảnh cuối cùng nhà văn đó để lại”. Có lẽ trường hợp của Y Ban cũng vậy, khen chê gì đi chăng nữa nhưng không thể phủ nhận rằng tất cả những gì chị viết đều để lại ấn tượng mạnh. Giới phê bình không đánh giá cao nghệ thuật viết của Y Ban, chị rất ít khi nhận được những bài viết lăng xê tác phẩm của mình. Thế nhưng sách của Y Ban bán rất chạy. Điều này không khó giải thích, tác phẩm của Y Ban tràn ngập những tình tiết cực kỳ ấn tượng thể hiện một vốn sống vô phong phú và đặc biệt. Quan trọng hơn cả là thế giới quan độc đáo của tác giả, nó thật khác thường, tuyệt đối độc lập, có khuynh hướng triệt hạ tất cả những gì tỏ ra cải lương, rởm, nửa mùa. Gu thẩm mỹ của Y Ban cũng khác lạ. Có lẽ với tác giả này cái Đẹp không chỉ là cái mĩ miều, đôi khi nó là sự khơi gợi, ám ảnh khiến con người ta hưng phấn, lặng đi, sững sờ thậm chí là sốc nữa. Cẩm cù là một tác phẩm tạo ra những cảm giác như vậy.

Nhân vật chính được viết từ ngôi thứ nhất (tôi). Chị ta kể lại thời thơ ấu của mình. Nó được diễn ra trong bối cảnh chiến tranh rồi tiếp đến là thời bao cấp khốn khó. Những gì nhân vật kể không phải là những câu chuyện quá xa lạ với phần lớn chúng ta thế nhưng dưới ngòi bút của Y Ban chúng đã biến thành những sự kiện thực sự đặc biệt.

Lời kể chuyện trong Cẩm cù được thể hiện bằng một giọng văn bình thản, chậm rãi, như biết bao tác phẩm tự truyện khác. “Khởi đầu cha mẹ tôi sống trong một căn hộ tập thể, khi sinh tôi ra cha mẹ tôi đã bế tôi về đấy. Đấy là nhà của tôi. Tôi lớn lên bình an trong ngôi nhà của mình đến khi năm tuổi thì chiến tranh nổ ra. Nhà tôi đi sơ tán. Đi sơ tán người ta không thể mang cả nhà đi được. Nhà tôi phải đi ở nhờ”. Giọng kể chậm rãi và bình thản này lại kể về một loạt những sự kiện gây sốc khiến không ít độc giả kém chịu đựng nổi gai ốc và lợm giọng. Nhân vật “tôi” trong truyện không có ý định tái hiện một tuổi thơ êm đềm trong trẻo. Phần lớn câu chuyện là những ám ảnh về sự khốn khó, nhếch nhác và sự thích nghi kỳ lạ của con người với những điều kiện sống tồi tệ trong quá khứ. Ám ảnh lớn nhất của nhân vật chính những nhà vệ sinh bẩn thỉu, nhếch nhác trải dài theo những tháng năm tuổi thơ nay đây mai đó. Gia đình của cô bé trong truyện không có nhà riêng, cứ đi ở nhờ hết nhà này đến nhà khác. Chính thế cô bé có cơ hội “trải nghiệm” tới hàng chục nhà vệ sinh đủ loại. Nhà vệ sinh thứ nhất được kể đến là “một nhà xí làm trên một ụ đất cao và không hề có một cái gì để che cả. Tôi không hiều rằng ngày mưa mọi người đi kiểu gì, chắc là sẽ nhịn cho đến khi tạnh mưa”. Rồi cô bé phát hiện ra cách nhà mình nửa cây có một trường học và trường học đương nhiên phải có nhà vệ sinh. Thế nhưng dù “được xây rất kiên cố nhưng cả dãy nhà xí năm cái chả cái nào có cửa”. Sau đó gia đình cô bé lại chuyển đến một nơi ở khác. Vừa đến nơi cô đã được đứa con gái chủ nhà bằng tuổi dẫn đi giới thiệu một cái nhà xí có hai hố. “Tôi và con bé con chủ nhà cùng vào, chốt chặt cửa và ngồi đối diện với nhau. Chúng tôi vừa đi vừa làm quen trò chuyện với nhau. Được một lúc tôi phải bịt mũi kêu:

- Thối lắm, không chịu được.

Mặt con bé kia lạnh tanh:

- Mày nghĩ đây là giường ngủ nhà mày chắc, đã gọi là chuồng xí thì nó phải thối chứ.

Tôi chẳng hiểu tại sao lại có loại nhà vệ sinh hai hố thế này và người lớn có đi chung như chúng tôi không nhỉ? Đó vĩnh viễn là một câu hỏi bí mật và cái sự bí mật này không hiểu có liên quan gì đến câu vè này không:

“Yêu em đâu phải bạc vàng
Yêu vì nhà nàng hố xí hai ngăn”


Bản thân câu vè này đã rất hóm rồi, khi nó được ghép với tình huống kể trên thì hiệu quả hài hước tăng gấp bội. Cứ như là người ta thiết kế nhà vệ sinh kiểu ấy là để dành cho những đôi uyên ương đi vệ sinh cùng nhau.

Càng những nhà vệ sinh sau này ngôn ngữ miêu tả càng trào lộng hơn. Các tình tiết gia tăng, mạnh mẽ hơn. Chẳng hạn, khi cô bé kể về nơi đi vệ sinh rất hoang dã ở nhà bác mình. Đó là một ngôi nhà rất khang trang, có sập gụ tủ chè đẹp đẽ nhưng lại không có nhà vệ sinh. “Mỗi lần buồn đi xia chúng tôi ra bờ sông mọc đầy cỏ lác, rắn rết vì thế một người đi ít nhất phải có người đứng canh chừng. Mỗi lần giải quyết xong cái bầu tâm sự ấy chị em tôi sung sướng lắm. Một lần sau cái sự vụ ấy về nhà chị em tôi rải chiếu xuống sàn nhà nằm, rồi hát nghêu ngao.

Chợt em tôi kêu lớn:

- Thối thế, kiểm tra xem ai giẫm phải cứt.

Thế là xăm xoi chân nhau rồi quần, cuối cùng cũng phát hiện ra thủ phạm. Trên cánh tay trắng nõn nà của chị tôi là một mảng phân đã ải”.

Cảm thấy tả lẻ tẻ từng cái nhà vệ sinh nhỏ chưa đủ độ, tác giả đã “dùng hẳn một chương để nói về cái nhà vệ sinh công cộng.” Vô số những chuyện bi hài diễn ra ở những chỗ như thế này. Chẳng hạn ở một trường học, cả thầy lẫn trò phải đi chung một cái nhà vệ sinh không cửa. “Thầy đang ngồi vô tư thì học trò cũng đi vào vô tư. Nhìn thấy thầy mà không chào thì vô lễ. Học trò bèn đứng nghiêm chắp hai tay trước ngực: “Em chào thầy ạ. Thầy ngửng lên vô cùng xấu hổ:

- Cút, ai cần mày chào ở chỗ này.

Trò có lý còn thầy thì vô lý. Có lẽ câu chuyện này thầy nên đưa vào bài luân lý và kết luận: Trò không nên chào thầy ở nhà vệ sinh công cộng.”

Sau khi kể lể bao sự cố oái oăm ở nhà vệ sinh công cộng, nhân vật chính cho rằng đó có thể là nơi “rèn tiếng Việt rất hay”. Một anh chàng táo bón bị người bên ngoài gõ cửa giục giã thì gắt lên: “Còn xơi”. Một anh Tây nghe vậy liền hỏi anh chàng vừa gõ cửa: “Cái anh ấy xơi gì trong đó vậy?” Đùa giỡn với tiếng Việt kiểu này ta cũng thấy xuất hiện trong Chuyện ông Móng của Nguyễn Huy Thiệp. Truyện ngắn này kể về một phiên chợ bán phân. Ông chủ chợ tên là Móng (trùng với tên một dụng cụ dùng để vét phân) có vai trò thẩm định chất lượng của từng sọt phân. Chẳng hạn khi bị dìm giá một phụ nữ chạy ra “cầu cứu” ông chủ chợ: “Bác Móng! Phân này của cháu mà chê là chua thì có ức không? Sau khi xem xét ông chủ chợ phán rằng: “Phân tốt đấy, không chua đâu! Chắc hố xí nhà này gần chỗ làm đậu phụ nên có nước đỗ tương lẫn vào. Rồi ông phán thêm: “Phân của mày hôm này không đậm như phân hôm qua! Nát nhẽo, nát nhèo… Thôi thì giảm đi một giá…” Với một phụ nữ khác đang than phiền gánh phân nặng quá thì ông cũng không quên chỉnh huấn: “Cho chết! Ai bảo tham múc nhiều nước vào… Mày phải chắt cho kiệt nước đi thì phân mới ngon!” Kết thúc truyện cũng là một câu đúc kết nghề nghiệp rất hóm của nhân vật chính: “Không vụ lợi, không “xếch-xy” - Ông Móng bảo tôi: Nghề hót phân trên đời là nhất!”.

 Trở lại với Chương VI của Cẩm cù, cái chương mà tác giả đã dốc sức để lột tả cho ra cái nhà vệ sinh công cộng của khu tập thể của cán bộ bệnh viện, nơi mà gia đình cô bé sinh sống. Năm 1972, khi cha cô nhận lệnh đi B cũng là lúc gia đình cô được phân nhà, vậy là chấm dứt những năm tháng nay đây mai đó. Nhà vệ sinh công cộng của khu tập thể là loại tự hoại. Khi mới xây dựng nó chẳng đến nỗi nào. Trẻ con thường trốn bố mẹ mang truyện vào đấy đọc hàng tiếng đồng hồ. Bởi vậy nhiều bà mẹ tìm con là chạy ra nhà vệ sinh gọi gọi: “Trời ơi mày đi ỉa ở đâu vậy? Ở Hà Nội hay ở Hải Phòng”. Thế nhưng những ngày tháng tốt đẹp ấy khá ngắn ngủi. Đầu tiên là mất nước. Nước sinh hoạt còn chẳng có lấy đâu ra nước cho nhà vệ sinh. “Cái kiểu nhà vệ sinh xây tự hoại nên không có nước thì không trôi được phân. Thế là cứ đi chồng đổ đống lên nhau. Tuy vậy nội quy của khu tập thể vẫn phải được duy trì, mỗi ngày một nhà dọn vệ sinh một lần. Cứ rình lúc nào người ta vừa dọn xong mà đi thì sạch. Tuy nhiên cái vấn đề ở đây liên quan đến sinh lý chứ không phải là cỗ máy đơn thuần”. Vấn đề nan giải thứ hai chính là cánh cửa. Chúng dần dần bị tháo trộm đi. Đa phần cư dân trong khu đều là y, bác sĩ nên để đỡ ngượng khi đi vệ sinh “ai cũng xùm xụp cái nón, không gặp ai thì thôi, mà có gặp ai thì cụp nón xuống để che mặt hoặc giả người đến sau cũng cụp nón xuống che để chẳng nhìn thấy gì”. Tệ hơn nữa là trần dột. “Những hôm mưa to thì nước ở trên trời cứ thế mà đổ thẳng xuống đít. Đố ai đi vệ sinh gặp trời mưa về mà không tắm. Có hôm mưa to ròi bắn lên mông”. Cuối cùng là cái nắp bể phốt. Nó bị vỡ toang hoác, đi đứng không cẩn thận ngã xuống bể phân như chơi. Cái bể phân lộ thiên là một nỗi ám ảnh kinh hoàng với nhiều người lớn tuổi. Bản thân bố cô bé cũng từng kể là nằm mơ “ngã xuống bể phân ngập đến tận cằm”. Thế rồi cái sự cố kinh hoàng liên quan đến bể phân ấy đã xảy ra nhưng ngoài sức tưởng tượng. Một bà y tá tên là Mơ sau khi đốt xong đám giấy vệ sinh liền hất đám tro vẫn còn cháy âm ỉ xuống bể phốt. “Thế là: Bụp - một tiếng nổ kinh hoàng, phân bắn tóe lên. Kết quả là bà Mơ hứng trọn một quả bom phân từ đầu đến chân”. Tới khi câu chuyện kết thúc, cũng là lúc cô bé năm xưa giờ đã trở thành cô giáo trở về thăm nhà, cái nhà vệ sinh vẫn còn đó. Vài nhà khá giả hơn đã làm nhà vệ sinh riêng, số đông còn lại cuộc sống chẳng thay đổi gì.

Ở những nước nông nghiệp lạc hậu thì phân và nước tiểu là bạn của nhà nông. Ngay như một bộ phận người Eskimo khi chưa bị người da trắng đồng hóa vẫn sử dụng nước tiểu để làm đẹp cho khuôn mặt. Thậm chí họ còn để xô nước tiểu ngay trong nhà để thuộc da và sống chung hòa bình với mùi của nó. Nhưng ở thành phố, khi điều kiện sống đã thay đổi rất nhiều, thứ chất thải đó chẳng cần đến nữa, nhà vệ sinh công cộng đã trở thành biểu tượng cho sự nhếch nhác, bẩn thỉu. Khi phải sống chung với nó người ta không thấy ngấm. Đến khi thoát ra được và nhớ lại thì rùng mình, đó thật sự là tận cùng đáy nhân gian. Tác giả của Cẩm cù đã quyết định chọn nơi tận cùng đáy nhân gian này làm đối tượng miêu tả, thậm chí luôn để nó trở đi trở lại trong tác phẩm của mình. Có lẽ, những nhà văn Việt Nam đủ năng lực, bản lĩnh, và… hào hứng viết về “phân” một cách nghiêm túc như vậy chỉ có Nguyễn Huy Thiệp và Y Ban.

Bàn về Cẩm cù không thể bỏ qua những nhân vật khác thường, đó là những người hàng xóm của cô bé, và dù ít hay nhiều, họ cũng liên quan đến cái nhà vệ sinh công cộng đó. Đầu tiên phải kể đến “bà Nhanh, bà Vội”. Tên thật của bà là Hạ Hoa Long. Bà vốn là con gái Hà Nội, xuất thân cao quý, được ăn học đường hoàng, có thể đọc được sách báo tiếng Anh. Thế nhưng giờ người ta chỉ thấy một người đàn bà lôi thôi, tất bật, ngày ngày hầu hạ ông chồng và ba thằng con trai. Lúc nào cũng thấy bà hét lên: “Tên tao là Nhanh, tên tao là Vội, ăn đi tọng đi”. Tuy vậy, so với đám đàn bà trong khu tập thể bà vẫn thể hiện là người cực kỳ hiểu biết, có thể giảng được tất cả các loại bài tập cho cô bé. Ngoài ra, bà còn có những bài học khác thường về “sự thích nghi hoàn cảnh”. Một hôm trời nắng to bà bê một chồng báo tiếng Anh ra phơi. Bà giải thích với cô bé: “Cháu biết vì sao nhà cô không có mùi nước tiểu của trẻ em không? Vì những tờ báo này đấy. Cô lót xuống giường để chúng đái vào đấy rồi cô mang ra phơi, khô đi cô lại dùng. Cháu biết không chồng báo này cô dùng từ thời em Tú (là đứa con đầu của cô) đến tận em thứ ba này mà không hỏng đâu đấy. Đúng là của bền tại người.” Cái quần lót của bà ấy cũng rất kỳ dị. Không ít kẻ tò mò rủ nhau đi xem. Bà cũng chả ngại ngần chỉ cho cô bé: “Quần em bé (bà dùng từ rất mĩ miều) cứ rách đũng mà vứt đi đi thì lấy đâu cho xuể. Cái đũng nào rách cô thay bằng cái đũng khác, chỉ mất một mảnh vải bằng bàn tay, đấy cái quần của cô đây này, cô đã thay tất cả 12 lần đũng rồi đó, mặc vào vẫn tốt chỉ có điều cái cục nối bị to quá khi nằm hơi bị cộm. Chồng của bà “Nhanh bà Vội” là bác sĩ gây mê duy nhất của bệnh viện nên hay được mời ăn cỗ. Cỗ tàn là ông xin chủ nhà một tờ giấy để “gói ít xương về cho chó”. Thế là chủ nhà buộc phải sốt sắng gói xôi, gói thịt cho ông mang về. Khi cô bé hỏi bà về chuyện này thì bà lại đưa ra một bài học khác: “Đấy là một sự thích ứng hoàn cảnh hơi thái quá. Nói nặng lên đó là một sự sỉ nhục. Tuy nhiên nếu không ăn lại phạm một tội nặng.”

“Bà Nhanh, bà Vội” không chỉ là một người “thích ứng hoàn cảnh hơi thái quá”, lối sống thực dụng, tiết kiệm triệt để không làm mất đi ở bà những linh cảm khác thường. Khi những hộ dân trong khu tập thể tìm cách chặt cây bàng lưu niên để cơi nới diện tích làm nhà vệ sinh riêng bà đã phản đối quyết liệt. “Cây bàng này là thiêng lắm, ai động vào nó là đổi mạng đấy”. Nước mắt bà chảy dài nhưng họ vẫn đốn hạ. Và ngay sau đó dịch sốt xuất huyết ập đến cướp đi sinh mạng của một đứa trẻ trong khu. Một lần khác, khi ông chồng vứt một bọc chìa khóa bà nhặt nhạnh được trong nhiều năm xuống một cái hồ. “Bà Nhanh, bà Vội” đã vô cùng lo lắng. Bà van xin ông chồng vớt bọc chìa khóa ấy về vì bà cho rằng cái hố đó là huyệt rồng, ném bọc chìa khóa xuống đấy thì coi như “ yểm cả cái thị xã này rồi”. Bà than thở với cô hàng xóm bé nhỏ: “Cô đã nhìn thấy trước cái cảnh suy tàn của cái thị xã xinh đẹp này”. Không lâu sau, vụ tham nhũng ở nhà máy dệt lớn nhất nước bị phanh phui. Nhà máy buộc phải ngừng hoạt động, hàng vạn công nhân lâm vào cảnh thất nghiệp, thị xã vốn sầm uất là vậy giờ xơ xác, tiêu điều. Kết thúc truyện, chúng ta lại gặp nhân vật này. Cô bé hàng xóm năm xưa giờ đã trở thành cô giáo về thăm lại nhà. Cô bất ngờ gặp lại “bà Nhanh, bà Vội”. Bà khoe cô một giàn hoa cẩm cù đẹp tuyệt vời do chính tay bà trồng. “Có một đấng thần linh nói với cô rằng, khi giàn hoa cẩm cù của cô nở được một trăm bông thì cái thị xã xinh đẹp này được cứu rỗi ”. Lời nói cuối cùng của nhân vật khác thường này kể như cũng là một kết thúc có hậu, nó khiến Cẩm cù không chỉ dừng ở một tác phẩm trào lộng thông thường. Nó cho thấy thế tục hỗn mang và khủng khiếp, nhưng đâu đó vẫn còn lại những giá trị nhân bản không thể phủ nhận. Cụ thể hơn nữa, thân xác của con người phàm tục nhưng đôi khi lại chứa đựng những cảm giác siêu linh thật phi thường.

Trong Cẩm cù, còn một nhân vật khác thường nữa. Đó là ông Tốn, bác sĩ chuyên khoa thần kinh. Ông này bẩn một cách đáng sợ. Khi đi vệ sinh thường đi chân đất nếu ai đó thắc mắc thì trả lời rất ngang: “Bẩn là bẩn thế nào? Tôi đi chân đất để nhớ phải rửa chân sạch trước khi bước vào nhà. Chứ các người đi dép tiếng là sạch sẽ cứ thế mà tha cả vào nhà” hay “Hôm trước tôi ngồi có mấy phút mà dòi bò lên trắng dép rồi tha về nhà. Lại cứ tưởng sạch”. Tuy ở bẩn nhưng ông Tốn lại tốt bụng, cả khu chỉ mỗi ông cho trẻ con hàng xóm vào xem ti vi nhờ. Có điều khi cả lũ trẻ con đang nghếch mặt xem ti vi thì ông lại có khoái cảm cậy bựa răng rồi búng. Trúng mũi đứa nào thì coi như “tắt luôn ước muốn đi xem vô tuyến.” Bản thân “tôi”, người kể chuyện cũng là một nhân vật khác thường. “Ngoài cái việc tôi có cảm xúc và hay nhớ những chuyện về phân thì tôi còn rất sợ thần thánh và đấng siêu nhân không nhìn thấy”. Trong có ba dòng ngắn ngủi mà nhân vật nhảy thoăn thoắt từ “có cảm xúc” rồi “nhớ những chuyện về phân rồi lại “rất sợ thánh thần và đấng siêu nhân không nhìn thấy”. Hay “Tôi đã răn mình sống thật tốt. Nhưng từ trong đầu tôi hay có những ý nghĩ quái gở.” Có thể nói trong Cẩm cù, Y Ban có ý thức đặt cái thanh bên cạnh cái tục, thậm chí đồng hiện. Thủ pháp này làm nên giọng điệu trào lộng khiến cho hành trình đến tận cùng thế tục trong Cẩm cù không vượt quá sức chịu đựng của độc giả. Chẳng hạn, ngay sau khi ca ngợi vẻ đẹp và hương thơm đầy quyến rũ của hoa hồng, nhân vật chính liền nói ngay lý do đầy khiếm nhã khiến hoa hồng lại tuyệt vời đến vậy: “Loài hoa là biểu tượng cho tình yêu lãng mạn nhất, đẹp nhất là loài hoa thích phân bắc. Một bác nông dân đã kể với tôi rằng: muốn hoa hồng to và đẹp, tươi mơn mởn, thơm hương, nở đúng vụ thì phải cho anh này ăn phân người. Loài hoa cẩm cù trong tác phẩm này cũng có số phận tương tự. “Đẹp, đẹp đến mê hồn. Tôi chưa khi nào nhìn thấy giàn hoa cẩm cù đẹp như vậy. Giàn hoa to bằng cái nong, xanh rờn. Và hoa, những bông hoa to bằng cái đĩa tây, phơn phớt trắng, phơn phớt hồng, phơn phớt xanh, phơn phớt vàng, cứ rung rinh rung rinh… Giàn hoa đẹp đến độ tôi không ồ à được câu nào mà cứ lặng người đi ngắm rồi bỗng thấy nước mắt tràn mi”. Thế nhưng liền sau đấy “bà Nhanh, bà Vội” đã tiết lộ. “Cái đẹp cũng phải có cái giá của nó” vì muốn hoa đẹp như vậy phải đốt giấy đi vệ sinh ở nhà vệ sinh công cộng rồi trộn với nước, sau đó đổ vào gốc. Chính nhân vật “bà Nhanh, bà Vội” nhiều năm trước cũng thường ban cho cô bé hàng xóm những lời khuyên từ “trời cao” hạ ngay xuống “đất dày”. “Trên trời tất nhiên là có mặt trời mặt trăng, mây trắng, mây xanh, các vì sao, tán cây xanh và thỉnh thoảng là một chú chim. Với mắt thường cháu không thể phát hiện ra được điều gì hay ho ở trên trời được đâu. Mà đôi khi mải nhìn trời, nhìn sự cao siêu cháu sẽ sa xuống hố. Cháu hãy nhìn xuống đất ấy. Ở mặt đất có nhiều thứ. Chí ít là cái kim, hoặc cái kim băng, hoặc dây chun… nếu cháu có số bắt được của, thì cháu sẽ bắt được tiền, được vàng. Dù không bao giờ bắt được thứ gì thì cháu cũng không bao giờ bị sa xuống hố cả.” Chập chờn giữa hai mảng sáng tối trong Cẩm cù không chỉ có con người, ngay cả con mèo của cô bé cũng thật khác thường. Mẹ của cô bé là nữ hộ sinh. Vì cuộc sống quá thiếu thốn nên bà và nhiều đồng nghiệp thường lấy nhau thai của những sản phụ khỏe mạnh về chế biến và gọi đó là “thịt bò đặc biệt”. Thế rồi một hôm con mèo chuyên ăn vụng của cô bé đã cắp về một miếng thịt nom rất lạ còn dính đầy máu. Mẹ cô trách con mèo: “Con mèo này lại đi cắp rau bà đẻ của nhà nào rồi”. Việc nhìn thấy món thịt bò đặc biệt khi chưa chế biến đã khiến con bé khiếp vía và từ đó không chịu ăn nó nữa. Vậy là con mèo đã làm cô bé sợ món ăn bổ dưỡng đó. Nhưng bù lại nó hay tha nhiều đồ ăn ngon miệng cho cô chủ đang đói bụng. Nào là cá chép, nào là thịt thăn. Thấy cô chủ thích thú nó lại càng ra sức công về nhiều hơn. Khi con mèo tha miếng nhau thai về, bạn đọc sẽ thấy có vẻ gì ma quỷ ở con vật này, thế nhưng khi nó tha đồ ăn về cho chủ thì con mèo ngay lập tức đóng vai trò “hành hiệp trượng nghĩa”. Chỉ loanh quanh tả chuyện con mèo vậy mà tác giả đã tạo ra được những trang viết cuốn hút và ấn tượng.

Vấn đề “thanh, tục song hành” trong Cẩm cù còn thể hiện ở giọng kể và những chi tiết được kể lại. Tác phẩm này đầy ắp những chi tiết “nổi gai ốc” nhưng giọng kể lại là giọng văn tự truyện giản dị, mạch lạc và trong sáng. Trong Cẩm cù dày dặc những trang viết mô tả rất khách quan, gần như không biểu cảm. Viết về một giai đoạn bao cấp nghèo khó, nhếch nhác nhưng tuyệt nhiên không có sự phẫn nộ hay lên án. Có chăng chỉ là sự trào lộng đủ để độc giả thỉnh thoảng bật cười. Y Ban không phải là một nhà văn có giọng điệu kể chuyện đặc biệt. Nhưng những chi tiết đặc biệt thì nhiều vô kể. Và quan trọng hơn cả là tác giả không bao giờ cố gắng nhồi nhét những tư tưởng hay triết lý nhân sinh sống sượng vào tác phẩm rồi cố gắng minh họa chúng. Y Ban chỉ bày ra trong tác phẩm của mình rất nhiều những tình huống thật trái khoáy, thật trớ trêu thậm chí kỳ quặc và nhường lại quyền phán xét cho độc giả của mình. Có lẽ chính vì vậy tác phẩm của chị hiện đại hơn rất nhiều cây bút cùng thế hệ.

M.H
(241/03-09)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • THÁI PHAN VÀNG ANHTừ sau 1986, sự đổi mới tư duy nghệ thuật, sự mở rộng phạm trù thẩm mĩ trong văn học khiến truyện ngắn không những đa dạng về đề tài, phong phú về nội dung mà còn có nhiều thể nghiệm, cách tân về thi pháp. Mỗi nhà văn đều lí giải cuộc sống từ một góc nhìn riêng, với những cách xử lí ngôn ngữ riêng. Hệ quả tất yếu là truyện ngắn Việt đương đại đã gặt hái được nhiều thành công trên nhiều phương diện, trong đó không thể không kể đến ngôn ngữ trần thuật.

  • TRẦN HOÀI ANH              1. Phân tâm học là lý thuyết có nguồn gốc từ y học, do S.Freud (1856-1939) một bác sĩ người Áo gốc Do Thái sáng lập. Đây là học thuyết không chỉ được áp dụng trong lĩnh vực y học mà còn được vận dụng trong nhiều lĩnh vực khác của đời sống xã hội trong đó có lĩnh vực nghệ thuật.

  • NGUYỄN DƯƠNG CÔN   Từ lâu, Bản thể con người đã trở thành vấn đề cơ bản và sâu sắc nhất của mối quan hệ giữa văn học với hiện thực. Trong mối quan hệ đó, hiện thực với tư cách là đối tượng khám phá và trình diễn của văn học không còn và không phải chỉ là hiện thực cuộc sống như là dành cho các khoa học nhân văn và các nghệ thuật khác nữa.

  • LÝ VIỆT DŨNGThiền tông, nhờ lịch sử lâu dài, với những Thiền ngữ tinh diệu kỳ đặc cùng truyền thuyết sinh động, lại chịu ảnh hưởng sâu sắc văn hóa Á đông xưa và thấm nhuần văn hóa Tây phương ngày nay nên đã cấu thành một thế giới Thiền thâm thúy, to rộng.

  • TRẦN HUYỀN SÂM1. Theo tôi, cho đến nay, chúng ta chưa có những đánh giá xác đáng về hiện tượng Xuân Thu nhã tập: Cả trên phương diện lý thuyết lẫn thực tiễn sáng tác. Có phải là nguyên do, nhóm này đã bị khoanh vào hai chữ “BÍ HIỂM”?

  • PHI HÙNGĐỗ Lai Thuý đã từng nói ở đâu đó rằng, anh đến với phê bình (bài in đầu tiên 1986) như một con trâu chậm (hẳn sinh năm Kỷ Sửu?).Vậy mà đến nay (2002), anh đã có 4 đầu sách: Con mắt thơ (Phê bình phong cách thơ mới, 1992, 1994, 1998, 2000 - đổi tên Mắt thơ), Hồ Xuân Hương - hoài niệm phồn thực (Nghiên cứu thơ Hồ Xuân Hương từ tín ngưỡng phồn thực, 1999), Từ cái nhìn văn hoá (Tập tiểu luận, 2000), Chân trời có người bay (Chân dung các nhà nghiên cứu, 2002), ngoài ra còn một số sách biên soạn, giới thiệu, biên dịch...

  • TRẦN ĐỨC ANH SƠNCuối tuần rảnh rỗi, tôi rủ mấy người bạn về nhà làm một độ nhậu cuối tuần. Rượu vào lời ra, mọi người say sưa bàn đủ mọi chuyện trên đời, đặc biệt là những vấn đề thời sự nóng bỏng như: sự sa sút của giáo dục; nạn “học giả bằng thật”; nạn tham nhũng...

  • HỒ VIẾT TƯSau buổi bình thơ của liên lớp cuối cấp III Trường Bổ túc công nông Bình Trị Thiên, dưới sự hướng dẫn của thầy Trần Văn Châu dạy văn, hồi đó (1980) thầy mượn được máy thu băng, có giọng ngâm của các nghệ sĩ là oai và khí thế lắm. Khi bình bài Giải đi sớm.

  • PHAN TRỌNG THƯỞNGLTS: Trong hai ngày 02 và 03 tháng 3 năm 2006, tại thủ đô Hà Nội đã diễn ra Hội nghị lý luận – phê bình văn học nghệ thuật toàn quốc. Trên 150 nhà nghiên cứu, lý luận, phê bình đã tham dự và trình bày các tham luận có giá trị; đề xuất nhiều vấn đề quan trọng, thiết thực của đời sống lý luận, phê bình văn học nghệ thuật hiện đại ở nước ta, trong đối sánh với những thành tựu của lý luận – phê bình văn học nghệ thuật thế giới.

  • NGUYỄN TRỌNG TẠO1. Con người không có thơ thì chỉ là một cái máy bằng xương thịt. Thế giới không có thơ thì chỉ là một cái nhà hoang. Octavio Paz cho rằng: “Nếu thiếu thơ thì đến cả nói năng cũng trở nên ú ớ”.

  • PHẠM PHÚ PHONGTri thức được coi thực sự là tri thức khi đó là kết quả của sự suy nghĩ tìm tòi, chứ không phải là trí nhớ.                       L.Tonstoi

  • TRẦN THANH HÀTrong giới học thuật, Trương Đăng Dung được biết đến như một người làm lý luận thuần tuý. Bằng lao động âm thầm, cần mẫn Trương Đăng Dung đã đóng góp cho nền lý luận văn học hiện đại Việt đổi mới và bắt kịp nền lý luận văn học trên thế giới.

  • PHẠM XUÂN PHỤNG Chu Dịch có 64 quẻ, mỗi quẻ có 6 hào. Riêng hai quẻ Bát Thuần Càn và Bát Thuần Khôn, mỗi quẻ có thêm một hào.

  • NGÔ ĐỨC TIẾNPhan Đăng Dư, thân phụ nhà cách mạng Phan Đăng Lưu là người họ Mạc, gốc Hải Dương. Đời Mạc Mậu Giang, con vua Mạc Phúc Nguyên lánh nạn vào Tràng Thành (nay là Hoa Thành, Yên Thành, Nghệ An) sinh cơ lập nghiệp ở đó, Phan Đăng Dư là hậu duệ đời thứ 14.

  • HỒ THẾ HÀLTS: Văn học Việt về đề tài chiến tranh là chủ đề của cuộc Toạ đàm văn học do Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế tổ chức ngày 20 tháng 12 năm 2005. Tuy tự giới hạn ở tính chất và phạm vi hẹp, nhưng Toạ đàm đã thu hút đông đảo giới văn nghệ sĩ, nhà giáo, trí thức ở Huế tham gia, đặc biệt là những nhà văn từng mặc áo lính ở chiến trường. Gần 20 tham luận gửi đến và hơn 10 ý kiến thảo luận, phát biểu trực tiếp ở Toạ đàm đã làm cho không khí học thuật và những vấn đề thực tiễn của sáng tạo văn học về đề tài chiến tranh trở nên cấp thiết và có ý nghĩa. Sông Hương trân trọng giới thiệu bài Tổng lược và 02 bài Tham luận đã trình bày ở cuộc Toạ đàm.

  • TRẦN HUYỀN SÂM1. Tại diễn đàn Nobel năm 2005, Harold Pinter đã dành gần trọn bài viết của mình cho vấn đề chiến tranh. Ông cho rằng, nghĩa vụ hàng đầu của một nghệ sĩ chân chính là góp phần làm rõ sự thật về chiến tranh: “Cái nghĩa vụ công dân cốt yếu nhất mà tất cả chúng ta đều phải thi hành là... quyết tâm dũng mãnh để xác định cho được sự thật thực tại...

  • NGUYỄN HỒNG DŨNG"HỘI CHỨNG VIỆT NAM"Trong lịch sử chiến tranh Mỹ, thì chiến tranh Việt Nam là cuộc chiến tranh mà người Mỹ bị sa lầy lâu nhất (1954-1975), và đã để lại những hậu quả nặng nề cho nước Mỹ. Hậu quả đó không chỉ là sự thất bại trong cuộc chiến, mà còn ở những di chứng kéo dài làm ảnh hưởng trầm trọng đến đời sống Mỹ, mà người Mỹ gọi đó là "Hội chứng Việt Nam".

  • BÍCH THUNăm 2005, GS. Phong Lê vinh dự nhận giải thưởng Nhà nước về Khoa học với cụm công trình: Văn học Việt Nam hiện đại - những chân dung tiêu biểu (Nxb ĐHQG, H, 2001, 540 trang); Một số gương mặt văn chương - học thuật Việt hiện đại (Nxb GD, H, 2001, 450 trang); Văn học Việt hiện đại - lịch sử và lý luận (Nxb KHXH. H, 2003, 780 trang). Đây là kết quả của một quá trình nghiên cứu khoa học say mê, tâm huyết và cũng đầy khổ công, vất vả của một người sống tận tụy với nghề.

  • THÁI DOÃN HIỂU Trong hôn nhân, đàn bà lấy chồng là để vào đời, còn đàn ông cưới vợ là để thoát ra khỏi cuộc đời. Hôn nhân tốt đẹp tạo nên hạnh phúc thiên đường, còn hôn nhân trắc trở, đổ vỡ, gia đình thành bãi chiến trường. Tình yêu chân chính thanh hóa những tâm hồn hư hỏng và tình yêu xấu làm hư hỏng những linh hồn trinh trắng.