Hai người phụ nữ

14:12 27/11/2020

AMOS OZ

Sáng sớm, khi mặt trời chưa mọc, tiếng gù của đôi chim bồ câu trong bụi cây bắt đầu trôi qua ô cửa sổ để mở.

Nhà văn Israel Amos Oz - Ảnh: wiki

Âm thanh khàn khàn, đều đều và miên man ấy vỗ về cô. Làn gió nhẹ se sẽ thổi qua những ngọn cây thông và tiếng gà gáy lanh lảnh trên sườn đồi. Xa xa vọng lại tiếng chó sủa và một con khác đáp lại. Những thanh âm ấy đánh thức Osnat trước cả khi chuông báo thức kịp reng. Cô ra khỏi giường, tắt chuông, tắm rửa và thay quần áo đi làm. Đúng năm rưỡi, Osnat đến kibbutz giặt ủi làm việc. Trên đường, cô đi ngang qua căn hộ của Boaz và Ariella, khi ấy vẫn khóa cửa và tắt đèn. Hẳn là họ còn đang ngủ. Ý nghĩ ấy chẳng gợi lên trong Osnat cảm giác ganh tị hay tổn thương nhưng đâu đó, cô cảm thấy có chút ngỡ ngàng mông lung: chừng như mọi việc đã xảy ra với ai đó chứ không phải với cô, và hình như nó đã xảy ra từ nhiều năm trước chứ không phải mới hai tháng rồi. Khi đến kibbutz giặt ủi, Osnat bật đèn lên vì ánh nắng hôm nay còn uể oải quá. Rồi cô cúi xuống đống đồ đang đợi, bắt đầu tách riêng quần áo màu ra khỏi quần áo trắng, vải bông ra khỏi vải sợi. Mùi cơ thể chua lòm bốc lên từ mớ đồ dơ, quyện với mùi bột xà phòng. Osnat làm việc ở đây một mình. Cô để chiếc radio ra rả cả ngày để xua tan nỗi đơn độc, mặc dù tiếng o o của những chiếc máy giặt đã nuốt chửng mọi giai điệu lẫn tiếng nói trên đài. Đúng bảy rưỡi, cô giặt xong mẻ đồ đầu tiên, trút quần áo ra và xếp lại, sau đó xuống nhà ăn tập thể để ăn sáng. Lúc nào cũng vậy, Osnat cứ đi chầm chậm, như thể cô không biết chắc mình sẽ đi đâu hoặc cũng không mấy bận tâm. Ở kibbutz của chúng tôi, Osnat là một người phụ nữ vô cùng trầm lặng.

Hồi đầu hè, Boaz thú nhận với Osnat anh đã qua lại với Ariella Barash suốt tám tháng và thấy rằng cả ba người họ không thể tiếp tục sống trong sự lừa dối nữa. Hắn quyết định chia tay và chuyển sang nhà của Ariella. “Em có phải là trẻ con nữa đâu. Em biết chuyện này vẫn xảy ra như cơm bữa mà, kibbutz của chúng ta cũng thế thôi. May là chúng ta chưa có con chứ không thì mọi chuyện sẽ lôi thôi hơn nhiều.” Boaz sẽ mang theo chiếc xe đạp nhưng để lại cái radio. Hắn muốn cuộc chia tay này êm ái như những tháng ngày họ đã sống với nhau. Nếu Osnat nổi giận, hắn hoàn toàn thông cảm được, mặc dù thật ra, cô chẳng có gì để tức giận cả. “Anh không cố tình tổn thương em. Chuyện với Ariella, cứ đến là đến thôi. Mọi chuyện chỉ có thế.” Nhưng dù sao đi nữa, hắn cũng rất áy náy. Hắn dọn đi ngay và để lại cho cô không chỉ là chiếc radio mà tất cả mọi thứ, kể cả cuốn albums, những chiếc gối thêu và bộ pha cà phê - món quà cưới của họ.

“Vâng”, Osnat đáp.

“Ý em là sao?”

“Đi,” cô nói, “anh đi đi.”

Minh họa: NGÔ LAN HƯƠNG


*
Ariella Barash là một người phụ nữ đã ly dị chồng, cao ráo, mảnh mai, với chiếc cổ thanh thoát, mái tóc bồng bềnh nhiều tầng và đôi mắt biết cười, trong đó có một con từng bị lé kim. Cô làm việc trong một trang trại gà và quản lý Phòng Văn hóa của kibbutz, chịu trách nhiệm tổ chức cưới hỏi, lễ kỷ niệm và kỳ nghỉ cho xã viên. Bên cạnh đó, cô còn mời diễn giả đến giảng dạy vào những buổi tối thứ Sáu và đặt phim chiếu trong nhà ăn vào tối thứ Tư. Ariella nuôi một con mèo già và một con chó nhỏ, hình như là chó con. Cả ba chung sống hòa bình với nhau trong căn hộ của cô. Con chó thường bị con mèo hăm he nên lịch thiệp nhường cho nó hẳn cả chiếc giường rộng. Con mèo phớt tỉnh người bạn chung nhà, lững thững đi qua mặt con chó như thể nó là kẻ vô hình. Suốt cả ngày, hai con vật hục hặc trong căn hộ của Ariella, mèo nằm trên sofa còn chó nằm trên thảm, “nước sông không phạm nước giếng”.

Trước đó, Ariella đã kết hôn với Ephraim - một quân nhân. Được một năm, anh bỏ cô để chạy theo một cô lính trẻ. Mối quan hệ của cô với Boaz bắt đầu vào cái ngày anh đến nhà cô, mặc chiếc áo ba lỗ đi làm đẫm mồ hôi loang lổ vết dầu máy. Ariella đã nhờ anh ghé ngang để sửa giùm cái vòi nước bị hỏng. Anh đeo một chiếc thắt lưng da có khóa bằng kim loại. Khi Boaz cúi xuống sửa vòi, cô dịu dàng vuốt ve tấm lưng rám nắng của anh mấy lần, cho đến khi anh quay lại mà hai tay vẫn không rời chiếc tua vít và mỏ lết. Kể từ hôm đó, anh thường lẻn sang căn hộ của cô, lúc thì nửa tiếng, lúc lại một tiếng. Người trong kibbutz Yekhat phát giác ra sự vụng trộm này và chẳng buồn giữ bí mật. Họ xì xầm: “Đúng là một cặp trái khoáy; anh ta thì câm như hến còn chị ta thì miệng mồm như tép nhảy.” Roni Shindlin - cái gã chuyên đùa cợt ví von: “Đúng là chạch đẻ ngọn đa.” Không ai nói gì với Osnat, chỉ có mấy người bạn của cô vẫn luôn bày tỏ sự cảm thông, rằng cô không hề cô đơn, và dù cô cần bất cứ thứ gì, từ những thứ nhỏ nhất… họ cũng sẵn lòng giúp đỡ.

Boaz chất đồ lên chiếc giỏ xe đạp và dọn sang căn hộ của Ariella. Buổi chiều, hắn sẽ từ ga-ra trở về nhà, thay đồ lao động ra rồi đi tắm. Ngay ngoài bậc cửa, hắn luôn hỏi vọng vào: “Hôm nay ở nhà có chuyện gì không?” Ariella sẽ đáp với vẻ ngạc nhiên: “Chuyện gì là chuyện gì? Chẳng có gì hết. Anh tắm đi rồi mình cà phê.”

Trong hộp thư riêng nằm phía bên trái, cách xa cái thùng thư gần với cửa ra vào nhà ăn tập thể, Ariella tìm thấy một tờ giấy nhắn được gấp lại. Trên đó là nét chữ viết tay tròn trịa, điềm tĩnh của Osnat:

Boaz hay quên uống thuốc huyết áp. Anh ấy cần uống vào mỗi sáng và tối trước khi đi ngủ. Buổi sáng, anh ấy còn phải uống nửa viên thuốc cholesterol. Chị đừng cho anh ấy ăn tiêu đen hay nhiều muối trong rau trộn, nên ăn phô mai ít béo nhưng đừng thêm thịt bò. Anh ấy có thể ăn gà và cá, nhưng đừng nêm nhiều gia vị quá. Và không nên để ảnh dùng quá nhiều đồ ngọt.

Osnat.

T.B: Boaz nên uống ít cà phê đen lại.

Ariella Barash viết vài dòng trả lời Osnat, với nét chữ sắc cạnh và chất chứa sự bất an. Cô bỏ mảnh giấy vào hòm thư:

Cảm ơn chị. Chị thật tử tế khi đã viết thư cho tôi. Boaz còn bị ợ nóng nhưng anh cứ bảo không sao hết. Tôi sẽ thử làm những việc chị đã dặn nhưng anh ấy không hề dễ tính chút nào. Anh ấy không hề để tâm đến sức khỏe, và cũng vô tâm với rất nhiều chuyện khác nữa. Chị biết mà phải không. Ariella B.

Osnat trả lời:

Nếu chị đừng cho anh ấy ăn thức ăn chiên, đồ chua hoặc cay, ảnh sẽ hết ợ nóng.

Osnat.

Vài ngày sau, Ariella Barash trả lời:

i vẫn thường tự hỏi, rốt cuộc, chúng tôi đang làm gì vậy? Anh ấy thì chôn chặt cảm xúc còn lòng tôi thì không thể nào yên được. Ảnh bao dung với con chó của tôi nhưng không thể chịu nổi con mèo. Chiều nào từ ga-ra về, Boaz cũng hỏi tôi: Hôm nay có chuyện gì không? Rồi đi tắm, uống chút cà phê đen, và ngồi lên ghế của tôi đọc báo. Khi tôi thử mang cho anh ấy tách trà thay vì cà phê, ảnh liền nổi đóa lên và cằn nhằn rằng tôi hãy thôi làm mẹ của anh ấy đi. Sau đó Boaz thiếp đi, tờ báo rơi xuống sàn. Bảy giờ tối, anh thức dậy nghe tin tức trên đài. Vừa nghe, anh vừa nựng nịu con chó và lẩm bẩm mấy lời âu yếm. Nhưng khi con mèo nhảy lên đùi anh và vòi vĩnh được cưng chiều thì Boaz lại hất nó ra với vẻ ghét bỏ khiến tôi xấu hổ vô cùng. Khi tôi nhờ anh sửa cái ngăn kéo bị kẹt thì anh ấy không chỉ sửa mà còn tháo nó ra và gắn vào hai cánh cửa tủ kêu cọt kẹt, rồi cười nhăn nhở hỏi liệu có nên sửa luôn nền nhà hay mái nhà không. Tôi tự hỏi trước đây, điều gì ở anh ấy đã thu hút tôi vậy và có lẽ bây giờ vẫn còn một chút chăng, nhưng tôi không tìm được câu trả lời nào rõ ràng. Thậm chí sau khi tắm xong, móng tay anh ấy vẫn xỉn màu dầu máy, còn bàn tay thì thô ráp và nứt nẻ. Sau khi Boaz cạo râu, dưới cằm vẫn còn lún phún vài cọng. Có thể vì lúc nào anh ấy cũng ngái ngủ, ngay cả khi Boaz đang thức thì trông anh vẫn có vẻ buồn ngủ nên tôi luôn phải cố gắng đánh thức anh dậy. Nhưng tôi chỉ giữ cho ảnh tỉnh táo được một chút, chắc chị biết sao rồi đấy, không phải lúc nào tôi cũng làm được. Không một ngày nào mà tôi không nghĩ đến chị, Osnat ạ. Tôi tự hỏi liệu chị có thể tha thứ cho những việc tôi đã làm với chị không. Thỉnh thoảng, tôi tự nhủ phải chăng Osnat cũng chẳng quan tâm lắm, phải chăng chị hết yêu anh ấy rồi? Làm sao mà biết được. Có lẽ chị nghĩ rằng thật ra tôi đã chọn lựa như thế. Nhưng thực sự chúng tôi đâu hề có sự lựa chọn. Đó đơn thuần là sự lôi cuốn giữa người đàn ông và người đàn bà, đột ngột xảy ra và thậm chí có chút ngớ ngẩn. Chị có nghĩ giống tôi không? Nếu như chị có con rồi, hẳn chúng ta sẽ chịu nhiều tổn thương hơn thế. Vậy còn anh ta? Thật ra anh ta đang nghĩ gì? Liệu có ai nói cho tôi biết được không? Chị biết rất rõ Boaz nên ăn gì và không nên ăn gì. Nhưng chị có biết lòng  ảnh đang nghĩ gì? Hay là, rốt cuộc anh ta có cảm xúc gì không? Có lần, tôi từng hỏi Boaz có hối hận không và anh ta đáp: “Em nhìn đi, anh đang ở đây với em. Không phải với cô ta.” Tôi mong chị biết điều này, Osnat ạ. Gần như đêm nào sau khi Boaz ngủ say, tôi cũng trằn trọc trên giường, nhìn ánh trăng lọt qua khe rèm chiếu vào căn phòng tối của chúng tôi và tự hỏi, nếu tôi là chị thì mọi chuyện sẽ thế nào. Tôi ngưỡng mộ sự điềm tĩnh của chị. Giá tôi có thể có một chút sự điềm tĩnh đó. Thỉnh thoảng tôi trở dậy, mặc quần áo và đi ra cửa, chợt nghĩ sẽ đến chỗ chị lúc nửa đêm và giải thích tất cả. Nhưng tôi có thể nói gì bây giờ? Tôi đứng ngoài ban công cả mười phút, nhìn lên bầu trời đêm trong veo và tìm kiếm chòm sao Đại hùng, rồi lại thay đồ ra, leo lên giường và tiếp tục trằn trọc. Boaz đang ngáy rất say sưa. Thốt nhiên, tôi cảm giác như mình đi lạc vào một nơi nào đó, thậm chí biết đâu là phòng của chị. Nhưng mong chị hãy hiểu cho, chuyện này chỉ xảy ra với tôi vào ban đêm, khi tôi không thể chợp mắt và không hiểu nổi rốt cuộc chuyện gì đã xảy ra và tại sao lại như thế. Tôi chỉ cảm thấy có điều gì đó vô cùng gần gũi với chị. Tôi muốn đến tiệm giặt làm chung với chị. Chỉ hai chúng ta thôi. Lúc nào tôi cũng mang theo những mảnh giấy dặn dò của chị trong túi và lấy ra đọc đi đọc lại. Tôi muốn chị hiểu rằng tôi trân trọng từng câu, từng chữ chị viết và thậm chí, ngưỡng mộ cả những điều chị không viết. Mọi người trong kibbutz bàn tán về chúng tôi. Họ ngạc nhiên về Boaz. Họ nói tôi chỉ tình cờ đi ngang, cúi xuống và lôi anh ấy ra khỏi tay chị. Còn Boaz thì đâu quan tâm đến chuyện gì khác ngoài căn nhà để đi về mỗi ngày và chiếc giường để ngủ mỗi đêm. Hôm nọ, khi đến gần văn phòng, Roni Shindlin nháy mắt với tôi, cười toe toét và bảo: Thế nào, nàng Mona Lisa, chân nhân vẫn chứ bất lộ tướng chứ hả? Tôi nín lặng và bỏ đi, lòng xấu hổ vô cùng. Rồi tôi về nhà và khóc. Có những đêm sau khi Boaz ngủ say, tôi lại khóc một mình, không phải và không chỉ vì anh ấy, mà vì tôi và chị. Có lẽ một chuyện gì đó rất tệ hại đã xảy ra với cả hai chúng ta mà không thể cứu vãn được. Thỉnh thoảng, tôi hỏi anh ấy: Cái gì vậy Boaz? Và nhận được câu trả lời: Có gì đâu. Tôi bị hút vào cái sự trống rỗng ấy - như thể anh ấy chẳng có gì để nói cả, hệt như anh ấy được sinh ra từ sa mạc cô đơn. Nhưng mà, tại sao tôi lại kể với chị mấy chuyện này nhỉ? Tôi biết chị sẽ buồn khi nghe vậy và tôi không bao giờ muốn khoét sâu thêm nỗi đau của chị. Ngược lại, tôi chỉ muốn chia sẻ với chị nỗi cô đơn khi cố gắng hiểu anh ấy thêm một chút. Hình như sáng nay, lúc anh ấy đang ngủ say, cuộn người lại như em bé nằm trong bụng mẹ, con chó nằm dưới chân còn con mèo đang nằm trên bàn, đôi mắt vàng vàng của ảnh vẫn dõi theo đôi tay tôi đang viết không ngừng dưới ánh đèn bàn. Tôi biết việc này là vô nghĩa. Tôi biết mình phải ngừng viết, thậm chí, chị sẽ không muốn đọc bức thư dài tận bốn trang này. Có lẽ chị sẽ xé và ném nó đi. Có lẽ chị sẽ nghĩ rằng tôi mất trí rồi mà đúng là thế thật. Chúng ta có thể gặp nhau nói chuyện được không? Không phải về chế độ ăn uống hay thuốc thang cho Boaz. (Tôi thật sự đã cố gắng nhắc nhở anh ấy đừng quên. Tôi đã cố, nhưng không phải lúc nào cũng được. Chị biết cái tính cứng đầu của Boaz mà, hình như anh ấy nghĩ nó không cần thiết hay đúng hơn là chẳng quan tâm.) Chúng ta có thể trò chuyện về những thứ khác nhau, như các mùa trong năm hay thậm chí bầu trời đêm đầy sao vào những tối mùa hè này. Tôi rất thích tìm hiểu về các vì sao và tinh vân. Có lẽ chị cũng thế chăng. Tôi sẽ chờ thư hồi âm và mong chị sẽ chia sẻ với tôi chị đang nghĩ gì, Osnat ạ. Chỉ hai từ thôi. Tôi đợi. Ariella B.

*

Osnat để lá thư nằm chờ trong hộp. Cô quyết định không trả lời. Cô đọc nó hai lần, gấp lại rồi bỏ vào ngăn kéo. Lúc này, Osnat đứng lặng thinh, nhìn ra ngoài cửa sổ. Ba con mèo đang ở bên hàng rào: một con bận nhay nhay cái chân; một con sà thấp người xuống đất hoặc cũng có thể đang lơ mơ gật gù nhưng đôi tai vẫn lay lay một cách đầy cảnh giác, như thể luôn sẵn sàng đón bắt mọi âm thanh mong manh nhất; còn con thứ ba đang rượt theo cái đuôi, xoay mòng mòng và nhẹ nhàng nằm ngửa ra vì nó còn quá nhỏ. Một cơn gió dịu dàng thoáng qua, chỉ vừa đủ làm nguội tách trà. Osnat rời khung cửa sổ, ngồi xuống ghế sofa, thẳng lưng, đặt hai tay lên đầu gối và nhắm mắt lại. Buổi tối sẽ sớm đến thôi, Os- nat sẽ thưởng thức nhạc trên đài và đọc một cuốn sách. Sau đó, cô thay quần áo, gấp bộ đồ mặc nhà lại gọn gàng, sắp sẵn quần áo đi làm ngày mai, leo lên giường và chìm vào giấc ngủ. Kể từ hôm nay, giấc ngủ của cô sẽ thôi mộng mị. Và cô sẽ thức dậy trước khi báo thức reo. Những chú chim bồ câu sẽ đánh thức cô.

Phương Hạ dịch
(Nguồn: https://harpers.org/)
(TCSH380/10-2020)

 

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • S. MROZEK (Ba Lan)Tại thủ đô của một vương quốc nọ có một viện bảo tàng, trong đó có khu trưng bày về nền nghệ thuật phương Đông. Trong vô số các hiện vật trưng bày tại khu này có nhiều báu vật cực hiếm, giá trị văn hoá và giá trị bằng tiền của chúng vô cùng lớn. Trong số các vật hiếm này có một báu vật đầu bảng, bởi đó là bản duy nhất thuộc loại đó và cũng là bản duy nhất trên toàn cầu. Vì là hiện vật cực hiếm nên giá trị văn hoá của nó là độc nhất vô nhị, còn giá trị bằng tiền thời không tính xuể.

  • WILLIAM SAROYAN (Mỹ)Cả thế giới muốn tôi làm một chầu hớt tóc. Cái đầu tôi thì quá bự cho thế giới. Quá nhiều tóc đen, thế giới nói thế. Mọi người đều nói, khi nào thì mày định đi làm một chầu hớt tóc vậy hả nhóc kia?

  • SOMERSET MAUGHAM (ANH)Trang trại nằm giữa thung lũng, giữa những mỏm đồi ở Sômôsetsi. Ngôi nhà xây bằng đá theo mốt cũ được bao bọc bởi những kho củi, sân nhốt súc vật và những công trình bằng gỗ khác. Thời điểm xây dựng được chạm trổ trên cổng bằng những chữ số cổ đẹp đẽ: 1673.

  • SORBON (Tajikistan)Sorbon sinh năm 1940 tại làng Amondar  trong một gia đình nông dân  thuộc  tập đoàn sản  xuất nông nghiệp. Năm 1963 ông tốt nghiệp Đại học Lenin của Tajikistan với bằng tiến sĩ ngôn ngữ học. Các tác phẩm của Sorbon xuất hiện lần đầu vào năm 1965. Tuyển tập truyện ngắn đầu tiên của ông “Không phải tất cả đã được nói ra” xuất bản năm 1969. Nhiều truyện ngắn của ông mau chóng được thu thập lại, trong đó có truyện “Ngày đầu tiên đến trường” nói về một phụ nữ Tajikistan  trong Thế chiến thứ Hai, “Sự phòng thủ của đá” và “Người du mục” nói về sự thiết lập chính quyền Xô Viết tại ngôi làng ven sông Zeravshan, và “Áo khoác đồ sộ” nói về một cậu bé bị mất cha trong chiến tranh. Sorbon là nhà văn có tiếng tăm lớn của nền văn xuôi Tajikistan ở thập niên bảy mươi. Truyện ngắn “Người đánh bẫy chim” được viết năm 1974.

  • MISHIMA YUKIO (Nhật Bản)Nhà văn Nhật Bản Mishima Yukio (1925 - 1970) bắt đầu in các tác phẩm của mình từ những năm 20 tuổi. Ông được tặng nhiều giải thưởng văn học và ba lần được đề cử vào giải Nobel văn chương.

  • PAUXTÔPXKIChúng ta yêu mến thứ ánh sáng bảo hiểm của những ngọn hải đăng nhưng ít khi nhìn thẳng vào nó. Thường chỉ có những người bảo vệ và các tay lái tàu dán mắt vào hải đăng để kiểm tra bí mật độ loé sáng của nó. Bởi vì tất cả hải đăng trên biển đều nháy và nhấp nhánh khác nhau, theo những tín hiệu đó, người ta có thể biết được hải đăng nào và con tàu đang ở đâu.

  • SLAWOMIR MROZEK (Ba Lan)(Lê Bá Thự dịch từ nguyên bản tiếng Ba Lan)

  • ALPHONSE DAUDETSự kiện phản ánh trong truyện xảy ra năm 1871, thời kỳ chiến tranh Pháp - Phổ, khi quân đội Phổ (Đức) đã chiếm đóng và sáp nhập hai tỉnh Alsace và Lorraine của Pháp vào lãnh thổ Đức.

  • DOMINIQUE DE VILLEPINTác giả Dominique de Villepin, sinh năm 1953, đương kim Bộ trưởng Ngoại giao Pháp, là người phát ngôn cho chính sách hòa bình đối lập với đường lối chiến tranh Bush-Blair trong vụ tập kích Irak đầu năm 2003. Nơi đầu sóng ngọn gió của bang giao quốc tế, ông đã đồng thời cho xuất bản một khảo luận về Thơ, Ngợi ca những Người Cướp Lửa, tượng trưng cho Người Làm Thơ, qua hình ảnh mượn của Arthur Rimbaud, lấy từ huyền thoại Prométhée.

  • MARK TWAINTwain, Mark, (Samuel Langhorne Clemens), nhà văn Mỹ, (1835-1910). Sinh tại Florida, bang Missouri. Là con thứ tư trong một gia đình thương nhân nghèo. Chưa đầy 12 tuổi, Clemens đã phải thôi học để học nghề sắp chữ in, rồi làm đủ nghề. Năm 1853, bị thôi thúc bởi ý muốn tìm hiểu thế giới, lên đường đi nhiều nơi, làm thợ in công nhật ở St. Louis, New York và Philadelphia. Đến sông Mississipi, hành trình dự kiến đi Brazil bị đình lại vì Clemens lại mơ ước trở thành hoa tiêu trên sông.

  • HARUKI MURAKAMI (Nhật Bản)Chàng và nàng đang đi trên một con đường. Dọc bãi tha ma. Lúc nửa đêm. Sương mờ vây phủ. Họ tuyệt nhiên không định đi ở nơi chốn này vào lúc này. Nhưng vì các nguyên do khác nhau họ đã buộc phải đi. Họ bước vội vàng, nắm chặt tay nhau.

  • GRAHAM GREENE (Anh)Có tám người đàn ông Nhật đang ăn bữa tối ở nhà hàng cá nổi tiếng Bentley's. Họ chỉ trao đổi với nhau dăm ba câu bằng thứ tiếng mẹ đẻ khó hiểu của họ, nhưng luôn có nụ cười nhã nhặn và thường mỗi câu lại kèm một cử chỉ cúi đầu lịch thiệp. Tất cả tám người, trừ có một, đều đeo kính. Thỉnh thoảng cô gái xinh đẹp ngồi phía cửa sổ lại đưa một cái nhìn lướt qua họ, nhưng xem ra chuyện của cô ta quá quan trọng, khiến cô ta không thể thực sự chú ý tới bất kỳ ai trên đời ngoài chính mình và người ngồi cùng bàn.

  • VICTORIA CHIE (ÚC)Cảm giác xấu hổ như kẻ đang làm điều mờ ám, Anne Peterson đặt bút run run ghi tên mình vào phần trống trong bản tự giới thiệu của văn phòng môi giới hôn nhân. Chẳng lẽ lại đến nông nổi này sao? 49 tuổi, trông còn rất trẻ, duyên dáng, đầy sức sống, thành đạt, vật chất đầy đủ, đã ly dị, thế mà phải nhờ môi giới kiếm cho một tấm chồng. Mà anh ta là ai, cũng là một kẻ nào đấy tìm đến đây với những dòng tự giới thiệu cứng nhắc. Thôi, đành vậy chứ biết sao, chỉ vì quá yêu con gái Cindy mà Anne đã phải chịu đựng nỗi trống trải cô đơn ròng rã suốt bao năm trời.

  • NGÔ KIM LƯƠNG (Trung Quốc)"Nếu còn gặp người, nhất định phải nói", Trần Tĩnh đang nghĩ, ngước mắt lên nhìn ánh đèn vàng vọt trong ngõ nhỏ. Đêm khuya rồi, khắp nơi là hình ảnh kỳ quái của một màn đêm đen kịt. "Ai cha! Chiếc xe đạp xui xẻo này!" - Cô đẩy chiếc xe, không biết phải nói thế nào.Sau lưng vang lên một hồi chuông xe đạp, Trần Tĩnh "ai cha" một tiếng, chàng trai cưỡi xe đạp đã lướt vèo qua rồi.

  • S.MROZEKCó một lần tôi đi du lịch.Vì không có tàu trực tiếp đến nơi tôi cần tới nên tôi phải xuống một ga dọc đường để chuyển sang tàu khác.Hôm đó là một buổi tối. Mãi sáng hôm sau con tàu tiếp theo tôi sẽ phải đi mới đến.Tôi rời nhà ga, vào thị trấn để kiếm nơi ở trọ.

  • JOYCE BEGG (Úc)Bà Firbank trở thành hàng xóm của chúng tôi đã lâu, dễ đến sáu bảy năm nay, nhưng thật sự trong chúng tôi chẳng ai dám khẳng định mình biết rõ về người đàn bà này. Xung quanh bà ta lúc nào cũng bao phủ một bầu không khí bí hiểm, ma quái, ngay cả toà dinh thự cổ của bà ta cũng gợi cho người ta cái vẻ rờn rợn, lạnh lẽo giống như nơi trú ẩn của những linh hồn cõi âm.

  • KRISHNAN VARMAKrishnan Varma sinh ở Kerala, Ấn Độ. Ông viết bằng hai thứ tiếng Anh và Malayalam. Trong nhiều tác phẩm của mình, ông chia sẻ sự quan sát đối với cuộc sống của lớp người cùng khổ trên đất nước ông.

  • ARTURO VIVANTELời giới thiệu: Nhà văn Arturo Vivante sinh năm 1923 ở Rome, tốt nghiệp cử nhân đại học McGill, Canada, 1945, tốt nghiệp y khoa đại học Rome, 1949. Ông hành nghề bác sĩ toàn khoa, đồng thời sinh hoạt và nghiên cứu về văn chương ở một số trường đại học Mỹ. Vivante là nhà văn rất nổi tiếng với các truyện cực ngắn và các giai thoại.

  • KÔNXTANTIN PAUXTÔPXKI Mùa Thu. Những hạt sương mai tháng Chín lạnh giá, mọng nước rơi tung tóe từ những tán lá trên cao xuống và bắn cả vào người tôi. Sương từ các nhành cây nhỏ giọt xuống mặt nước sông đen thẫm, tạo thành những vòng tròn và chậm rãi lan ra xung quanh.

  • LTS: Mario Bendetti sinh tại Paso de los Toros (Tacuarembó ) ngày 14 tháng 9 năm 1920. Ông theo học tại trường tiểu học tiếng Đức ở Montevideo và trường trung học Miranda, đã từng làm nhiều nghề như nhân viên bán hàng, tốc kí, kế toán, viên chức nhà nước và phóng viên. Từ năm 1938 đến 1941 ông sống chủ yếu ở Buenos Aires . Năm 1945, khi trở về Montevideo, ông viết bài cho tuần báo nổi tiếng Marcha, qua đó trở thành phóng viên bên cạnh Carlos Quijano và rồi trở thành một thành viên trong ê-kíp của ông này cho tới tận năm 1974 khi tuần báo ngừng xuất bản.Năm 1973, vì lí do chính trị, ông phải rời bỏ tổ quốc,bắt đầu cuộc sống lưu vong kéo dài mười hai năm ở những quốc gia: Ác-hen-ti- na và Tây Ban Nha. Quãng thời gian này đã để lại những dấu ấn vô cùng sâu sắc trong cuộc đời ông cũng như trong văn nghiệp.