KEVIN BOWEN
(Giám đốc WJC)
LTS: Trong 25 năm qua tên tuổi nhiều nhà văn, nhà thơ của Trung tâm William Joiner (Đại học Massachusetts - Hoa Kỳ) như Kevin Bowen, Fred Marchant, Nguyễn Bá Chung, Lady Borton, Martha Colline, Bruce Weigl, Lary Heinemann... đã xuất hiện trên Sông Hương cũng như trên nhiều báo chí văn nghệ, văn hoá trong nước với những tác phẩm tâm huyết, mến yêu đất nước Việt Nam cũng như những hoạt động trên các lãnh vực giao lưu văn hoá, giúp đỡ y tế, giáo dục cho Việt Nam sau chiến tranh, như những biểu hiện của sự ân hận, tủi hổ với những gì mà đất nước họ đã gây ra trên mảnh đất này.
Đại tướng Võ Nguyên Giáp và Kevin Bowen
Ở Thừa Thiên Huế đó là những đoàn do WJC tổ chức đến tìm hiểu về lịch sử văn hoá Huế và Việt Nam trong các dịp hè và các văn nghệ sĩ Huế đến Hoa Kỳ giao lưu hữu nghị, đó là quan hệ giúp đỡ đào tạo các giảng viên của Đại học Huế, là việc vận động giúp đỡ máy móc cho Bệnh viện TW Huế và trao tặng máy trợ thính cho trẻ em khiếm thính, đó là dự án giúp đỡ nạn nhân chất độc da cam sắp triển khai... WJC, bằng các hoạt động kiên trì và phong phú của mình, “đã là chiếc cầu nối hữu nghị giữa nhân dân hai nước Việt Nam - Hoa Kỳ ngay giữa lúc quan hệ Việt - Mỹ bị đóng băng” như nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã phát biểu trong dịp gặp mặt với đoàn WJC tại Huế đầu năm 2007.
Trong số báo kỳ này, chúng tôi xin giới thiệu một số sáng tác và bài viết của một số nhà văn Thừa Thiên Huế (Tô Nhuận Vỹ, Võ Quê, Nguyễn Đắc Xuân) và của WJC (Kevin Bowen, Fred Marchant, Nguyễn Bá Chung) trong tinh thần hữu nghị này, được sắp xếp theo các chuyên mục của Sông Hương.
Cố Chủ tịch Hạ Nghị Viện Hoa Kỳ Thomas P. “Tip” O’Neill, Jr. có một câu nói đã trở thành châm ngôn hay được nhiều người trích dẫn - “Tất cả chính trị đều mang tính địa phương”. Câu nói đó có thể coi như một chủ đề mô tả sự phát triển của trung tâm chúng tôi. Trung tâm có nguồn gốc từ những công trình của ông Bill Joiner Jr., một cựu binh Mỹ da đen có trách nhiệm giúp đỡ các sinh viên cựu binh ở trường Đại học Boston State, sau chuyển thành Đại học Massachusetts.
Đại học Boston State có lịch sử một trăm năm cung cấp một giáo dục cấp đại học với học phí vừa túi tiền cho những thanh niên trẻ thuộc giai cấp lao động ở thành phố Boston . Khởi đầu là một trường sư phạm đào tạo các giáo viên, nó được mở rộng thành một đại học với các ngành Xã hội Nhân văn vào thập niên 1960. Với học phí vừa phải, lại tọa lạc ngay trong trung tâm thành phố, nó đã trở thành một trường được ưa chuộng của các thanh niên và thanh nữ sau khi phục vụ trong quân đội. Ở nhiều mặt, Bill Joiner đã trở thành chất xúc tác của các hoạt động cựu binh, hướng dẫn những người lính mới chân ướt chân ráo trở về làm quen với môi trường học vấn mới lạ.
Chính tại Đại học Boston State mà một trong những tổ chức Cựu binh Việt Nam đầu tiên ở Mỹ đã ra đời - Trung tâm Điều phối Quyền lợi Cựu binh (The Veterans’ Benefits Clearinghouse), tranh đấu cho những quyền pháp định của cựu binh, nhất là các cựu binh thiểu số, được hưởng, như quyền được có chỗ cư trú, được cố vấn giúp đỡ, được hưởng các lợi ích luật định, và được ghi danh vào các các trường hợp với học phí vừa phải.
Vào những năm đầu của thập kỷ 60, để đáp ứng cho nhu cầu vào các đại học công với học phí vừa phải, trường Đại học Massachusetts mở thêm một chi nhánh ở Boston . Tọa lạc ngay giữa trung tâm thành phố, với một ban giang huấn mới và trẻ trung, nó đã thu hút hàng ngàn những sinh viên năm thứ nhất. Rất nhiều những sinh viên này đã tham gia vào các hoạt động chống chiến tranh, như biểu tình ngồi, tổ chức các lớp học tập về chiến tranh Việt Nam, và bãi khóa sau khi quân Mỹ xâm lấn Căm Bốt vào năm 1970. Chỉ trong vòng vài năm ngắn ngủi sau khi mở cửa trường, chi nhánh mới này đã có thể hãnh diện với số sinh viên cựu binh chiếm 35% tổng số ghi danh.
Vào thập niên 70, hai trường Boston State và University of Massachusetts Boston nhập thành một và dời về một trụ sở mới ở vùng Dorchester, ngay bên cạnh Thư viện Tổng thống Kennedy. Bill Joiner trở thành Giám đốc Sinh viên Vụ ở trường mới này.
Được mọi người kính nể và quý mến vì sự chăm sóc tận tình của anh cho từng người lính cũ, tất cả đã ngỡ ngàng khi được tin anh mang bệnh ung thư gan năm 1980. Thời đó ung thư gan được coi là một trong những thứ ung thư bất trị liên hệ tới chất độc da cam, một loại thuốc khai quang rải khắp ở Việt , mà công việc của Bill trong thời chiến có dính líu tới.
Bill mất năm đó. Một thời gian ngắn sau khi Bill qua đời đã có nhiều nỗ lực thành lập một trung tâm mang tên anh để tiếp tục phục vụ các người lính giải ngũ trở về, bênh vực cho những nhu cầu của họ, và phát triển các nghiên cứu và tài liệu giáo trình để giúp cho nước Mỹ hiểu cuộc chiến tranh Việt Nam và những hậu quả của nó.
Để thành lập một trung tâm như vậy, nói dễ hơn làm, với sự chống đối nổi lên từ một số bộ phận của nhà trường. Để phản đối, các sinh viên cựu binh đứng xếp hàng theo quân kỳ dưới trời mưa, viết thư và gọi điện thoại tới những người như Chủ tịch Hạ Nghị Viện Tip O’Neil, Thượng Nghị sĩ Fran Doris, người có bốn anh em trai tử trận trong cuộc chiến tranh Triều Tiên.
Trung tâm William Joiner trở thành hiện thực vào tháng 10 - 1982. Trong những năm đầu, trung tâm có ngân quỹ rất nhỏ, và hoàn toàn tuỳ thuộc vào đóng góp của Đại học. Năm 1984, một uỷ ban đặc biệt được quốc hội tiểu bang thành lập đã đề nghị cấp cho trung tâm 300.000 MK để xây dựng một văn khố và tổ chức các cuộc nghiên cứu cũng như giáo trình về những hậu quả của cuộc chiến tranh Việt . Với nguồn ủng hộ đầu tiên đó, trung tâm đã có thể bắt đầu làm việc thực sự. Một trong số những hoạt động đầu tiên là tổ chức một Hội Nghị quốc tế về Chất độc Da Cam, và sự khởi hành của một trong nhiều đoàn thân hữu sang thăm Việt Nam, rời phi trường Logan sau ngày lễ Giáng Sinh năm 1985, cũng là ngày đạo diễn Oliver Stone ra mắt phim “Trung Đội” (Platoon).
Tôi vẫn còn nhớ như in chuyến đi đó, nhất là cảm giác một lần nữa tôi lại tới Việt . Cảm tưởng đầu tiên tôi nhớ mãi là sự bình lặng, cuộc hành trình trở về một nơi đã biến đổi đời tôi trong năm 1968 - 1969 khi tôi là một người lính. Nhưng khi chân tôi vừa chạm đất lần này, tôi biết ngay là đời tôi lại đang biến đổi một lần nữa.
Một trong những đỉnh cao của chuyến đi là cuộc viếng thăm Huế và cuộc hành trình trên đường số 9, qua những nơi tôi đã từng có mặt - Bãi Đáp (LZ) Sharon, Betty, Jane, và lúc ghé thăm Nghĩa trang Trường Sơn. Suốt một giờ đồng hồ tôi lẳng lặng tách riêng ra khỏi đoàn, một mình lang thang đi hết mộ này sang mộ khác, lòng bàng hoàng với một cảm giác mất mát không cùng. Tôi nhớ đã ghi tên của ba người lính nằm yên nghỉ ở đó, tử trận trong thời gian tôi có mặt ở Quảng Trị, sau này tôi đã viết một bài thơ về họ.
Đêm hôm ấy chúng tôi dự tiệc chiêu đãi với người đứng đầu tỉnh, ông Nguyễn Văn Lương, người hóa ra là chỉ huy trưởng của lực lượng quân Giải Phóng trước kia. Tôi nhớ là tôi ngồi đối diện với ông, sự căng thẳng từ từ giãn ra khi ông nghiêng người tới trước, nắm lấy tay tôi - “Chúng ta đã từng gặp nhau như những người lính, súng trên tay, bây giờ chúng ta gặp nhau như những nhà giáo. Xin nhớ là lúc nào ông cũng được chào đón ở tỉnh này”.
Chính sự tiếp đón ân cần đó, sự cởi mở không do dự đó, sự tận tâm mặt đối mặt giữa cá nhân với cá nhân đó đã trở thành đặc điểm của mọi giao lưu của Trung Tâm Joiner. Nó có nghĩa là một bước tin nhảy vọt giữa những cá nhân với cá nhân trong khi hai đất nước lúc đó vẫn còn đầy thận trọng và nghi kỵ.
Tiếp tục những năm kế tiếp là các cuộc thăm viếng hai bên - các cựu binh, bác sĩ, nghệ sĩ, nhà văn, giáo sư, v.v. Có lẽ đối với những cựu binh của cả hai bên, sự còn sống sót sau chiến tranh làm cho nỗ lực phải vượt qua mang tính riêng tư và khẩn thiết. Vấn đề không phải lúc nào cũng đơn giản, nhưng cảm giác là những cuộc trao đổi từ hai bên đã cùng khởi từ một lòng nhân bản chung, với cùng một ý hướng chung, đã giúp làm nhỏ đi các trở ngại, nhất là khi so với những điều chúng ta muốn thực hiện.
Quả thực là ở Mỹ chúng tôi đã phải đối mặt với những chống đối, những đe dọa, những phá phách nhằm triệt tiêu nguồn ngân quỹ của chúng tôi. Nhưng tất cả những khó khăn đó đều nhoè đi trước tất cả những gì chúng ta đã thực hiện được: biết bao những giáo sư tận tụy, những bác sĩ, những sinh viên chúng tôi đã bảo trợ, và những tác phẩm chúng tôi đã giới thiệu được với độc giả Mỹ. Riêng đối với cá nhân tôi, cuộc hành trình, như tôi đã nói, vẫn tiếp tục, không ngừng nghỉ, làm biến đổi đời tôi. Với tôi, thật là kỳ diệu khi nghĩ tới từ lúc tôi còn là người lính cho tới khi, sau bao năm dâu biển, tôi có thể được nghe một đoàn hợp tấu Sông Hương trình diễn ca Huế ở ngay sân nhà tôi, hoặc dự đám cưới của cô gái là con của một người hoạt động cách mạng, hoặc tôi có thể ngồi trên dòng sông Hương, lặng lẽ ngắm những hoa đăng lững lờ trôi theo dòng nước trong tiếng nhạc Huế xa xưa.
Âm nhạc dòng sông
Từng chiếc, từng chiếc một
Bơi xuống dòng sông đêm
Ôi đèn lồng như mộng
Tỏa lung linh êm đềm
Những chiếc đèn gọi bạn
Ngân vọng bến bờ xa
Tôi ngỡ những vũ nữ
Đang múa theo vòng tròn
Cho vợ tôi đèn đỏ
Con trai tôi đèn vàng
Đèn xanh cho bé nhỏ
Sinh trong ngày xuân sang
Đèn múa đôi, múa ba
Chúng tôi cùng uống rượu
Thỏa chúc các chàng trai
Mang tình sông nồng thắm
Những người già tóc bạc
Cười vào trong tiếng đàn
Và một nàng ca sĩ
Hát những lời mênh mang
Nàng đẹp như tiên nữ
Làm vầng trăng tối sầm
Gương mặt nàng vừa hiện
Trăng chết tràn trên vai.
NGUYỄN QUANG THIỀU dịch
Trở về sau chuyến đi đầu tiên đó, tôi không phải là một nhà thơ. Hay có lẽ đúng hơn, tôi là một nhà thơ bị ngắt quãng. Hồi còn trẻ tôi có làm thơ, nhưng sau khi từ chiến trường trở về tôi không viết được nữa. Trở lại Việt đã hồi phục tôi khỏi một sự câm lặng mà có lẽ tự tôi khó có thể tự thoát ra được. Đọc và tìm hiểu thơ ca Việt đã mở rộng sự hiểu biết của tôi về Việt và về chính mình; nó đã góp phần đào sâu hơn nguồn nước của những bài thơ tôi viết, những tác phẩm tôi dịch, và đời sống hàng ngày của tôi.
Công việc đó sẽ tiếp tục. Chúng tôi mong những nỗ lực sắp tới của chúng tôi nhằm ghi lại thành tài liệu những câu chuyện sống của những nạn nhân chất độc da cam và của gia đình họ, và cố gắng trợ giúp những gì có thể được đối với nhu cầu của những gia đình bị chất độc đó hủy hoại sẽ có hiệu quả và lớn mạnh trong tương lai.
NGUYỄN BÁ CHUNG dịch
TCSH số 225/11-2007
PHẠM NGUYÊN TƯỜNG Tản mạn từ Bruxelles Dưới mái hiên trạm gác cũ Porte de Ninove gần chỗ tôi ở có sống một cư dân đơn độc và lưu niên. Gã bù xù, tôi chỉ biết gọi gã như thế, nom chỉ trạc ngoài ba mươi nhưng có vẻ như đã cũ nát lắm rồi. Không ai biết gã từ đâu dạt vào, ở đó từ bao giờ.
TRẦN THÙY MAI.Năm giờ sáng, máy bay chở chúng tôi đáp xuống sân bay Incheon. Giọng nói ngọt ngào của nữ tiếp viên vang lên với lời cảm ơn và câu chào tạm biệt, sau khi báo một thông tin làm chúng tôi ớn lạnh: Nhiệt độ bên ngoài là 4 độ C...
ĐẶNG NHẬT MINHLà một thương cảng của Nhật Bản, nhưng Fukuoka lại được nhiều người biết đến như một thành phố của nhiều hoạt động văn hoá mang tầm quốc tế. Tôi có duyên nợ với thành phố này từ năm 1991 khi được mời tham dự Liên hoan phim quốc tế Fukuoka lần thứ nhất với bộ phim Bao giờ cho đến tháng 10.
PHẠM XUÂN PHỤNGChữ tea trong tiếng Anh là do dùng mẫu tự La -tinh để ký âm chữ trà (âm Hán Việt) mà người Trung Hoa nói rất rõ là chè. Lâu nay cứ tưởng chè là tiếng thuần Việt hoặc là biến âm của trà, hóa ra chè lại là từ gốc của trà. Mẹ mà nhầm là con, vui thật.
BÙI NGỌC TẤNLần đầu tiên đặt chân tới Châu Âu, có biết bao nhiêu ấn tượng. Ấn tượng về những nét mặt người, về những dáng người đi, về bầu trời không vẩn bụi trong veo, về những xa lộ, về những chiếc xe phóng với tốc độ 140 kilômét không một tiếng còi, nối nhau trên các con đường tám đến mười làn xe chạy không còn biên giới cách ngăn...
NGUYỄN VĂN DŨNGCó người nói Praha đẹp hơn Paris . Tôi không tin. Nhưng bây giờ thì tôi thấy nhận xét ấy không phải không có căn cứ. Praha là thành phố cổ kính nguyên vẹn nhất châu Âu, là “thành phố của trăm tháp vàng”, là “bài thơ bằng đá”, là khúc hát đắm say, là cốc rượu nồng nàn, là bức tranh tuyệt mĩ, là mảnh thời gian còn sót lại... Năm 1992, Praha được công nhận là di sản văn hoá thế giới.
PHẠM THỊ CÚCCó người nghĩ rằng, ở các nước giàu, thì ít người thất nghiệp. Không đâu, ở Pháp, người thất nghiệp cũng khá nhiều, mà đâu phải vì không có bằng cấp mà thất nghiệp, đa số họ đều có bằng kĩ sư, cử nhân, cả thạc sĩ hẳn hoi.
NGUYỄN VĂN DŨNGAmazon là tên khu rừng lớn nhất thế giới. Amazon cũng là tên con sông, theo khảo sát mới đây, là con sông dài nhất thế giới. Amazonas, quê hương của hai Amazon kia, là bang rộng nhất trong 26 tiểu bang của Brasil - rộng hơn cả diện tích của nước Anh, Đức, Pháp, Ý cộng lại. Còn Manaus, là kinh đô của Amazonas miên man núi rộng sông dài.
NGUYỄN VĂN DŨNG Tôi thật sự xúc động khi đứng trước ngôi mộ của Lý Tiểu Long. Trước đây tôi hình dung nơi an nghỉ cuối cùng của anh phải là một ngôi đền cực kỳ tráng lệ cho xứng với tên tuổi lẫy lừng của anh. Sau khi anh mất, một tờ báo ở Sài Gòn hồi đó viết đại loại trong thế kỷ XX, anh là một trong ba nhân vật nổi tiếng nhất châu Á.
NGUYỄN VĂN DŨNGVới Phật giáo, Linh Thứu là ngọn núi thiêng. Sau khi thành đạo, một thời gian dài Linh Thứu là trú xứ của đức Phật và các đệ tử của Ngài. Tại đây Ngài đã giảng kinh Pháp Hoa và nhiều bộ kinh quan trọng khác. Linh Thứu còn là nơi khởi phát dòng Thiền Ấn Độ để rồi từ đây hạt giống Thiền được gieo trồng khắp nơi trên trái đất.
PHẠM PHÚ PHONGTrong lịch sử đất nứơc Trung Hoa có sáu nơi được chọn làm thủ đô, theo thứ tự Lạc Dương, Tây An, Nam Kinh, Khai Phong, Hàng Châu và Bắc Kinh là thủ đô thứ sáu, tồn tại cho đến ngày nay. Bắc Kinh đầu tiên là kinh đô của nước Yên, nên còn gọi là Yên Kinh, sau đó đến thời Minh Thành Tổ cho xây dựng trở thành Bắc Kinh ngày nay. Với diện tích 18.826 km2, Bắc Kinh rộng gấp 18 lần so với thủ đô Hà Nội, được mệnh danh là thành phố bốn nhiều: nhiều người, nhiều xe, nhiều cầu vượt, nhiều di tích...
Từ một trại lính đầy vết đạn ở vùng California (Hoa Kỳ) đã xuất hiện một tu viện Phật giáo - Tu viện Lộc Uyển - do nhà sư gốc Huế - Thiền sư Thích Nhất Hạnh - gầy dựng. Tại đây, ảnh hưởng của Thiền học Việt Nam đã tạo được một sự chuyển hóa đầy thử thách: biến trung tâm luyện tập bắn súng trở thành thiền đường đầy ánh sáng và tình thương, có ảnh hưởng rất lớn đối với nhiếu người ở Hoa Kỳ.Sông Hương xin giới thiệu bài viết của Teresa Wattanabe đã đăng trên tờ Los Angeles Times, tờ nhật báo lớn hạng ba của Hoa Kỳ, với bản dịch của Làng Mai và ảnh của Nguyễn Đắc Xuân để giới thiệu với bạn đọc như một dòng chảy của văn hóa Phật giáo xứ Huế.
TRẦN THÙY MAICác quan chức ngành khí tượng Nhật Bản đã cúi gập mình xin lỗi toàn dân: Hoa anh đào sẽ nở ngày 23 thay vì 16 - 3 như dự báo. Đến sân bay Narita vào đúng sáng 24, tôi tự nghĩ mình đến rất kịp thời, nên khi cậu cảnh sát làm thủ tục nhập cảnh hỏi về mục đích đến Nhật, tôi đã không ngần ngại trả lời chắc nịch: “Ngắm hoa anh đào”. Cậu cảnh sát khoanh cái rụp vào lời khai của tôi và “OK” ngay với một nụ cười trên môi.
NGUYỄN VĂN DŨNGNằm giữa trung tâm bán đảo Iberia, thủ đô Tây Ban Nha trải rộng trên các ngọn đồi dưới chân rặng Sierra de Guadarrama, ở độ cao 640m so với mặt nước biển - là thành phố cao nhất châu Âu. Diện tích 607 km2. Dân số gần 4 triệu người.
NGUYỄN BÁ CHUNG
Tháng 10 năm 2007 đánh dấu 25 năm thành lập trung tâm Joiner. Nhưng với tôi, nó đánh dấu một đoạn đường 20 năm nổi chìm với trung tâm, trong đó có 15 năm làm thiện nguyện và 10 năm cuối cùng làm việc chính thức. Hai mươi năm là một thời gian dài đủ để nhìn lại, ghi lại một số kỷ niệm và rút ra một số kinh nghiệm để nhìn tới đoạn đường phía trước.
NGUYỄN ĐẮC XUÂNHoạt động yêu nước ở miền Nam từ những năm sáu mươi của thế kỷ trước, tôi không lạ gì nước Mỹ. Thuở ấy, Phan Ch. anh bạn vong niên của tôi làm phiên dịch ở cơ quan MACV ở Huế từng bảo tôi “Người Mỹ giống như một cậu bé con nhà giàu nhưng thiếu lễ độ”.
VÕ QUÊNhận lời mời của Hội đồng quốc gia vì nghệ thuật truyền thống Hoa Kỳ (National Council for the Traditional Arts), đoàn nghệ sĩ thuộc Hội Văn học nghệ thuật Thừa Thiên Huế đã tham dự Festival dân ca dân nhạc tại thành phố Lowell, bang Massachusetts, Hoa Kỳ từ ngày 25-7-1995.
NGUYỄN XUÂN THÂMChúng tôi đến Aten vào cuối tháng chín, mà buổi trưa vẫn còn oi bức như bao trưa miền biển ở Việt . Thanh Tùng và tôi loay hoay mãi vẫn không bắt được taxi để chuyển tiếp đến sân bay nội địa.
NGUYỄN VĂN DŨNGSau Cali tôi định đi Dallas, nhưng rồi chuyển hướng, tôi lên Seattle theo vẫy gọi của bạn bè. Ai ngờ cái thành phố nầy dịu dàng, xanh và đẹp đến vậy. Hèn chi người ta gọi nó là “Thành phố ngọc bích” ( Emerald City ), hay “Mãi mãi xanh tươi” ( Evergreen State ).
PHẠM THƯỜNG KHANHĐầu năm nay khi biết tôi chuẩn bị đi công tác Trung Hoa, em gái tôi, một người thơ gọi điện từ Huế ra bảo: “Anh cố gắng mà cảm nhận vẻ đẹp rực rỡ của văn minh Trung Hoa. Hình như với bệ phóng vững chắc của nền văn minh hàng ngàn năm ấy, người Trung Hoa đang có những cuộc bứt phá ngoạn mục và trong tương lai dân tộc này còn tiến xa hơn nữa”. Là một quân nhân, tôi đâu có được trí tưởng tượng phong phú và trái tim dễ rung động như em tôi, nhưng 10 ngày trên đất nước Trung Hoa đã để lại trong tôi những ấn tượng thật sâu đậm.