Gửi sông thao

15:10 04/06/2008
(Thơ Đỗ Quý Bông - Nxb Văn học, 2000)Đỗ Quý Bông chinh phục bạn hữu bằng hai câu lục bát này:Đêm ngâu lành lạnh sang canhTrở mình nghe bưởi động cành gạt mưa.

Trở mình chưa đúng cách lắm. Đúng ra phải gọi là giở mình. Tiếng giở mình của ngâu (ngâu lạnh thêm), tiếng giở mình của người, tiếng giở mình của bưởi, trong cùng một thời khắc sang canh. Trời Đất, cỏ cây, con người cùng giao hoà trong thời khắc ấy. Cặp câu thơ đồng hiện thật tài. Đắc địa hơn, động từ gạt lại ẩy hơi thở vào không khí Liêu Trai; đọc bằng mắt mà da tay, da mặt dại hẳn đi, nổi gai lên; thật sướng hết chỗ nói. Đó mới đích thị là câu thơ “anh hoa phát tiết”, thật sự quý hiếm.
37 bài thơ của Gửi sông Thao thua hai câu thơ trên một bậc, tuy cùng một tác giả; song lại được cái Tình, cái Nghĩa và cái nết chất phác của giọng điệu, của từng câu. Ta cùng vào sâu một cụm thơ tiêu biểu để thấy đôi nét những đặc tính nêu trên. Ở bài Mai vàng, tác giả mở ra:
            Bạn tôi đi công tác phía ra
            tặng tôi cây mai hoa vàng rực rỡ
            mẹ tôi bảo giống cây này quê tôi không có
            hàng xóm nghe tin sang xem
Một liên hệ thuần phác của người mẹ ở làng quê. Trong trái tim phúc hậu của mẹ, trong tình làng nghĩa xóm còn có thêm bầu bạn của con trai mẹ. Con trai mẹ, con trai làng, đã đi những đâu, đã đến những đâu? Mẹ làm sao biết hết được! Chỉ khi cây mai vàng hiện diện thì mẹ mới rõ. À ra thế! Cây mai vàng! Ở trong mẹ không chỉ còn riêng duy nhất con trai mẹ nữa, mà còn có cả bầu bạn của nó. Những miền đất nó đã ở. Những miền người nó đã quen thân. Tứ thơ mở ra đến cõi non sông yên bình. Đất nước mở ra trong trái tim mẹ. Ngày xưa con trai mẹ lũn cũn đi theo mẹ. Bây giờ tâm tưởng mẹ lọ mọ đi theo con trai mình:
            Mừng tuổi mẹ chân bùn tay lấm
            biết thêm phần đất nước ở nơi xa
Tứ thơ đẹp. Câu chữ ôn hoà. Chỉ một cây mai mà nói được sự đoàn viên của đất nước, của dân tộc, thật không dễ.
Bài Phượng cũng khá lạ. Tác giả đi trong đêm (dĩ nhiên là một mình), trên con đường đầy hoa phượng vĩ, và tư lự:
            Đỏ đường rực lối người đi
            Tưởng hoa phượng thức soi gì cùng ta
            Bước khuya, lắng mắt phố già
Ánh đèn ánh phượng tràn qua... ánh mình
Câu thứ 4 giỏi. Chính từ cái ánh của các sự vật mà tác giả cảm nhận ra được cái ánh của riêng mình. Thêm nữa, câu 3 lại góp xuống một động thái lắng, khiến mối suy tư sâu hơn.
Ngắm chim bói cá kiếm ăn một mình trên một khúc sông vắng, tác giả không chỉ giới hạn ở miêu tả:
            ... Trên lưng một vòm trời
            đáy nước một vòm trời
            bốn bề mây gió cuộn
            một mình mà thành đôi.
Vòm trời trong đáy sông là vòm trời no đủ của bói cá, vòm trời giúp bói cá sống và tồn tại. Hẳn bói cá không để ý đến bóng mình trong đó. Nhưng tác giả thì để ý đến con bói cá và cái bóng của nó. Để rồi không nói thêm gì nữa. Ấn tượng chim bói cá kiếm mồi buộc người đọc nảy sinh mối liên tưởng về trách nhiệm đối với chính mình của mỗi người trước cuộc sống.
Bên cạnh cụm thơ khá tiêu biểu này, Gửi sông Thao còn có một vệt thơ về các bậc danh nhân: Lý Bạch, Đoàn Thị Điểm, Tam Nguyên, Chế Lan Viên, Văn Cao... Bạn đọc thấy được dụng công của tác giả trong việc tìm từ, tìm cách thể hiện. Tìm ra được ao thu mặt cốm là tinh. Bẻ câu 8: Giữa trưa/ngày cũng xẻ đôi//nữa là... cũng tạm ghi nhận được. Nhìn tổng thể thì phép dụng công đó hiệu quả chưa thu được là bao.
Ưu thế của thơ Đỗ Quý Bông là không dài lời. Nếu phải xử lý một vấn đề rộng lớn, bao giờ anh cũng đầu tư khá lớn cảm xúc, suy tư và tình cảm. Bài Mẹ của anh là một tiêu biểu. Bạn đọc, bạn hữu đang chờ đợi ở anh nhiều nữa những bài có trữ lượng tình cảm lớn, cảm xúc lớn, sau tập thơ đầu tay này.
Hà Nội, 17-10-2001

TRẦN QUỐC THỰC
(nguồn: TCSH số 154 - 12 - 2001)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • Trong bài viết điểm lại văn học năm 2000, sự kiện và bình luận, tôi có nêu hai tác giả trẻ, cùng là nữ, cùng có tác phẩm đáng chú ý trong năm, một người tập truyện, một người tập thơ. Người thơ là Vi Thùy Linh.

  • (Đọc “Gặp lại tuổi hai mươi”(*) của Kiều Anh Hương)Ngay bài thơ in đầu tập “Vùng trời thánh thiện” có hai câu đã làm tôi giật mình, làm tôi choáng ngợp:            “Những lo toan năm tháng đời thường            Như tấm áo chật choàng lên khát vọng”

  • đầu tháng 4 năm ngoái, sau khi tuần báo “Văn nghệ” của Hội Nhà văn Việt Nam đăng truyện ngắn dự thi “Quả đồng chùy tóc bện” của Trần Hạ Tháp - một bút danh “mới toanh” trên văn đàn, tôi ghé tòa soạn “Sông Hương” hỏi nhà văn Hà Khánh Linh:- Chị biết Trần Hạ Tháp là ai không? Tác giả chắc là người Huế...

  • Trương Văn Hiến có sở học phi thường và mang trong người một hoài bão lớn lao: an bang tế thế bình thiên hạ.

  • (Qua “Sau tách cà phê” của Nguyễn Trác, Nhà Xuất bản Hội Nhà văn, Hà Nội, 2000.)1- Sau năm năm từ “Chiếc thuyền đêm” (năm 1995), hình như  “đến hẹn lại lên”, nhà thơ Nguyễn Trác lại ra mắt bạn đọc tập “Sau tách cà phê”.

  • Thơ là một bức xúc của tình cảm và tư tưởng con người, buộc con người phải diễn ra bằng ngôn ngữ, âm thanh, màu sắc, đường nét, hình khối. Thơ là đòi hỏi, là nhu cầu của con người, nếu không biểu lộ được ra thì còn bức rứt khổ sở.

  • (Đọc tập thơ “Thế giới và tôi” của Ngô Tự Lập)Tôi kém Ngô Tự Lập hơn chục tuổi nhưng không “trẻ” hơn anh. Tuổi trẻ làm ta cao ngất lên, tuổi già đôi khi cũng vậy. Nhưng cao ngất lên ta thấy gì nào?

  • “Tết không vào nhà tôi”(*)nghĩa là tết không vào nhà Phùng QuánCâu thơ tâm trạngVấn nạn một đời

  • Nhà thơ Phùng Quán trọn cuộc đời (1932 - 1995) là một chiến sĩ Vệ Quốc Đoàn xông xáo và nhiệt huyết.

  • Đầu những năm 61, Phùng Quán về lao động tại nông trường Thắng Lợi, huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hoá. Quán ở đội 6 khai hoang, tôi ở đội canh nông Ngọc Ách từ trước.

  • Chỉ trong vòng 63 năm từ 1930 đến 1993, văn học Mỹ đã vinh dự nhận được 11 giải Nobel. Đây là một thành tựu vượt bậc đáng tự hào mà không phải bất cứ một quốc gia nào có thể sánh kịp. Đóng góp vào ánh hào quang ấy có John Steinbeck - nhà văn lớn của văn học hiện thực Mỹ.

  • (Đọc “Thơ Trần Quốc Thực” – Nxb HNV 2007)Giữa rất nhiều giọng thơ khoa trương, khoe mẽ hôm nay, Trần Quốc Thực là một giọng thơ lặng lẽ đầy bản sắc. Sự ngại giao tiếp, sự âm thầm dâng hiến cho thơ của Trần Quốc Thực đã khiến cho nhiều người không biết đến thơ anh.

  • Văn học huyền ảo ra đời mang lại một thành tựu của phương pháp sáng tác. Một bước chuyển tiếp sau hàng thế kỉ từ cổ điển, lãng mạn, rồi hiện thực.

  • (Đọc lại "Chân dung và đối thoại" của Trần Đăng Khoa)Tôi đã viết vài dòng góp ý chân tình sau khi đọc lướt cuốn "Chân dung và đối thoại" của Trần Đăng Khoa. Nếu Khoa thực sự hiểu được vấn đề cũng như dư luận đánh giá đúng cuốn sách thì tôi không đọc lại và cũng không viết nữa làm gì.

  • Nếu ai đã được say, đã được bay cùng vầng trăng trong thơ Lý Bạch, thì sẽ không khỏi chạnh lòng khi đọc những vần thơ trăng của Đặng Huy Trứ. Đặng Huy Trứ có yêu trăng không ?Rất yêu. Yêu rất nhiều...

  • Phùng Quán ơi ! Bây giờ trước cái chòi ngóng sóng ở mé Hồ Tây nhà anh, quán nhậu mọc lên nghi ngút, che khuất những bầy sâm cầm đương hạ cánh xuống hoàng hôn. Cái nhìn của anh cũng đói, nhưng ở thế giới bên kia anh đâu có ngán :"Trong trăm nghìn nỗi đói/tôi nếm trải cả rồi/tôi chỉ kinh khiếp nhất/ là nỗi đói tình người

  • Những câu thơ này ở trong bài Gió và tình yêu thổi trên đất nước tôi. Lịch sử đất nước, qua con mắt thơ Lưu Quang Vũ, bao trùm là gió và tình yêu. Cũng có thể mượn câu này để nói về đời và thơ của chính anh. Điều anh ước đã làm những trang thơ anh có rất nhiều gió.

  • Đây là công trình nghiên cứu tổng kết có tính chất chiến lược Chương trình Khoa học Công nghệ cấp Nhà nước KXO6 "Văn hóa, văn minh vì sự phát triển và tiến bộ xã hội" do cố giáo sư Nguyễn Hồng Phong làm chủ nhiệm. Văn hóa chính trị truyền thống Việt là một đề tài quan trọng của công trình.

  • NGUYỄN THỤY KHA(Đọc “Gửi VB” thơ của Phan Thị Vàng Anh, Nhà xuất bản Hội Nhà văn - 2006)Có một thời, người ta giấu kín nỗi cô đơn như một khuyết tật của mình để được hoà nhập vào đám đông ồn ào, hơn hớn lên đường, để được hy sinh và dâng hiến vô danh. Nhưng đã là khuyết tật thì có giấu mãi cũng đến lúc phải lộ ra, nữa là nỗi cô đơn không thể thiếu ở mỗi kiếp người. Mãi đến thời thanh bình, nỗi cô đơn của thân phận dần dà mới được nói ra.

  • Hoạ sỹ Đỗ Kỳ Hoàng nguyên ủy viên thường vụ Hội LH.VHNT TT.Huế, nguyên chủ tịch Hội Mỹ thuật TT.Huế, nguyên giảng viên Đại học Nghệ thuật Huế v.v... đã từ trần ngày 26 tháng 10 năm 2006, hưởng thọ 75 tuổi.Thương tiếc người hoạ sỹ tài danh xứ Huế, Sông Hương xin đăng bài viết của nhà thơ Võ Quê và xin được coi đây như một nén hương tưởng niệm