Giọng điệu truyện ngắn Trần Trung Sáng

08:18 21/01/2019

PHAN ĐÌNH DŨNG  

Nhà văn Trần Trung Sáng, người Hội An, Quảng Nam, là một nghệ sĩ tài hoa. Anh vừa là nhà báo, nhà văn, tác giả của nhiều tập truyện, truyện kí, truyện vừa, tiểu thuyết, vừa là một họa sĩ đã từng được Hội Nhà báo thành phố Đà Nẵng tổ chức triển lãm trang dán giấy vào năm 1999… Có điều ngòi bút Trần Trung Sáng quả thật có nhiều duyên nợ với truyện ngắn, một thể loại văn học mà anh đã gặp gỡ, hò hẹn từ năm 17 tuổi rồi chung thủy gắn bó với nó từ bấy đến giờ.(1)

Ảnh: internet

Tập truyện ngắn Những cuộc hẹn bên lề(*) (NCHBL) ra mắt bạn bè, văn hữu tháng 10 năm 2017 tại thành phố biển Nha Trang xinh đẹp, gồm 17 truyện ngắn chọn lọc từ những trang văn đầu tay đến những truyện gần đây của anh, theo như Lời tựa của nhà văn Võ Chân Cửu, có thể xem như là tuyển tập truyện ngắn kết đọng tinh hoa/tinh huyết truyện ngắn Trần Trung Sáng. Từ tuyển truyện này, những người đồng điệu cùng anh có thể cảm nhận “tấm lòng nhân hậu, luôn mơ ước tới cuộc sống tốt đẹp của Trần Trung Sáng” (Võ Chân Cửu), thú vị với cách xây dựng các nhân vật nữ “quá trong sáng, quá đẹp” của tác giả tập truyện (Phan Trang Hy), “gặp gỡ những miền đất với những bản sắc văn hóa độc đáo, những mảnh đời, những số phận đầy uẩn khúc bị lãng quên…” (Gérard Chappuis, nhà nghiên cứu văn hóa người Pháp gốc Việt)…

Riêng tôi, tôi lại tâm đắc với giọng điệu truyện ngắn nhà văn Trần Trung Sáng bởi nghĩ rằng có lẽ đây chính là một trong những điểm đặc sắc của cây bút truyện ngắn phố Hội, đất Quảng này chăng?

Giọng điệu, có khi còn được gọi là giọng văn (thơ), vốn là một phạm trù thẩm mĩ của tác phẩm văn học “phản ánh lập trường xã hội, thái độ tình cảm và thị hiếu thẩm mĩ của tác giả, có vai trò rất lớn trong việc tạo nên phong cách nhà văn và tác dụng truyền cảm cho người đọc” (2). Đi vào truyện ngắn hiện đại, giọng điệu sẽ chi phối một số yếu tố nghệ thuật đặc thù như cấu trúc, hình tượng, ngôn từ… của tác phẩm.

Trong số 17 truyện ngắn của tập truyện NCHBL dễ nhận thấy phần lớn chúng thuộc kiểu truyện ngắn trữ tình. Đa phần câu chuyện được kể lại/trần thuật từ điểm nhìn chủ quan, điểm nhìn của một (hay nhiều) nhân vật xưng tôi: Con mèo ngái ngủ, Người tí hon trong gian nhà bạt, Ga nhỏ, Chiếc nhẫn cưới, Những cuộc hẹn bên lề, Trái tim con rồng đá, Mát-xa, Những que diêm, Họp lớp, Cuộc đua, Bức tranh thiếu nữ, Chuyện Ngọ xưa, Bức ký họa trên sông Mê Kông. Mà những nhân vật xưng tôi này đa số lại thuộc về một thế giới những con người trẻ trung, lãng mạn, giàu cảm xúc. Họ có thể là những nghệ sĩ hoặc có công việc, nghề nghiệp gắn bó ít nhiều với nghệ thuật: Con mèo ngái ngủ, Những cuộc hẹn bên lề, Trái tim con rồng đá, Bức tranh thiếu nữ, Chuyện Ngọ xưa. Họ có khi là người chồng trẻ lãng mạn, dễ xao lòng (Nhẫn cưới); là người làm nghề xây dựng ưa quan tâm, đồng cảm với những số phận thua thiệt, khiếm khuyết (Mát-xa); là anh bộ đội tinh tế, nhạy cảm với những mảnh đời bất hạnh (Những que diêm, Bức ký họa trên sông Mê Kông); là những con người thường xuyên hoài niệm về những tháng ngày đẹp đẽ, lãng mạn, giàu cảm xúc của tuổi học trò (Họp lớp, Cuộc đua); là những đứa trẻ giàu tưởng tưởng và xúc động, khát khao tình bạn (Người tí hon trong gian nhà bạt, Ga nhỏ)… Do vậy, giọng điệu của các nhân vật kể chuyện ấy chủ yếu là giọng trữ tình - lãng mạn; thế giới họ kể ít khi là thế giới hiện thực trần trụi, lạnh lùng mà thường là thế giới nội cảm, thế giới hiện lên qua tâm trạng, qua hệ thống những cảm giác/cảm xúc với các phức hợp khác nhau của chúng. Điều này, không chỉ tạo nên cái nhìn tinh tế và nhân văn của tác phẩm mà còn chứa đựng một dạng chất thơ của truyện ngắn Trần Trung Sáng. Chất thơ bàng bạc từ những suy cảm lãng mạn xoay quanh những chi tiết miêu tả/biểu hiện con người và thiên nhiên:

- …Nhưng với tôi, đáng nhớ hơn cả, đó là những cô thiếu nữ Hà Nội. Trời ạ, cứ 10 cô thì có đến 9 cô rưỡi đẹp mê hồn. Nói mê hồn chắc chưa chuẩn xác, phải nói rằng đẹp và sâu lắng tựa bước ra từ những trang sách Tự lực văn đoàn! (Con mèo ngái ngủ).

- Tôi muốn gào lên, than khóc với đất trời: Tại sao thế giới rộng lớn bao la là vậy, Thượng đế lại chỉ có một người con gái duy nhất dành cho chúng tôi? (Họp lớp).

- Mùa xuân. Dọc hai lối đi trên sân vườn nhà Bạch Dương, lặng lờ từng đàn bướm muôn màu sắc. Những cánh bướm bao giờ cũng làm lòng người xao xuyến nhớ đến một thời yêu đương hò hẹn. (Trái tim con rồng đá).

Chất thơ trong truyện ngắn Trần Trung Sáng còn ẩn hiện trên những dòng thơ người trần thuật liên tưởng, hồi ức rồi đưa vào ngôn ngữ trần thuật của mình để vừa tạo ra một bầu không khí trữ tình - lãng mạn cho câu chuyện, vừa gắn kết với tâm trạng, cảm xúc của người kể chuyện. (Con mèo ngái ngủ, Họp lớp, Chuyện Ngọ xưa…).

Đầu óc, trái tim của những nhân vật trữ tình trong truyện ngắn Trần Trung Sáng đâu chỉ thấm đẫm cảm xúc thơ ca mà còn khắc sâu, in đậm khá nhiều bóng dáng những người đẹp một thời từng đi qua cuộc đời mình. Những bóng hình xinh đẹp ấy chủ yếu được trình hiện thông qua cái nhìn bên trong, cái nhìn tâm trạng của người kể chuyện, do vậy, ngoại hình của họ thường chỉ được chấm phá vài nét dung dị, chủ quan:

- … cô gái đang ngồi trước mặt chúng tôi, với mái tóc xõa ngang lưng, gương mặt trái xoan, đôi mắt tròn xoe vời vợi… (Con mèo ngái ngủ).

- … dáng người gầy guộc, mái tóc cắt ngắn, nụ cười héo hắt, chốc chốc tạo thành những nếp nhăn buồn bã; nếu không vì đôi mắt tròn xoe, đen láy, mơ màng còn lại, chắc khó lòng tôi biết được đó là Bạch Dương thuở xưa. (Trái tim con rồng đá).

- Vẫn cái dáng mảnh khảnh như một con chim sâu nhảy nhót chuyền cành. Vẫn khuôn mặt trái xoan, nụ cười nhè nhẹ mà mỗi lần nhìn thấy hồn tôi bay bổng cả chín tầng mây. (Họp lớp).

- Những múi tóc xõa tung. Những cánh tay trần. Những vồng ngực khỏe khoắn. Những đường cong hoang dã… Tất cả nét đẹp diệu kì của tạo hóa thấp thoáng phơi bày sau những làn vải mong manh, ít ỏi, phập phồng trong làn nước. (Thị trấn bên kia suối).

Người kể chuyện dường như coi trọng hơn việc lột tả tính cách “dịu dàng, nhân hậu” (từ dùng của nhà phê bình Phan Trang Hy), số phận nghiệt ngã và nghị lực mạnh mẽ vượt lên số phận của họ so với miêu tả dáng dấp, ngoại hình. Giọng điệu chủ yếu của nhân vật người kể chuyện ở đây là giọng cảm thông, tin yêu. Bởi vậy, ở kết thúc của khá nhiều truyện ngắn trong tập NCHBL, người đọc hay bắt gặp nhân vật xưng tôi gửi gắm những ước mơ, hi vọng tốt đẹp của mình hướng về hình tượng nhân vật nữ trong truyện (Ga nhỏ, Chiếc nhẫn cưới, Mát- xa, Những que diêm, Bức tranh thiếu nữ…).

Giọng điệu trữ tình - lãng mạn còn chi phối cách kể, cách dàn dựng quan hệ giữa các nhân vật ở một số truyện ngắn của tập có sự đan xen, đắp đổi giữa điểm nhìn khách quan của người kể chuyện và điểm nhìn nhân vật. Đọc truyện ngắn có tên dùng làm tên chung của cả tuyển tập, người đọc có cảm giác hình như người kể chuyện cố tình dùng một giọng kể khách quan, tỉnh táo thể hiện qua lối gọi nhân vật “gã” và “chị”, qua những câu thoại có vẻ như “vu vơ”, “bâng quơ” giữa nhà báo và đối tượng ghi chép… “Nhưng tình cờ, câu chuyện càng lúc càng xoáy sâu vào nỗi niềm của chị”; sự đồng cảm đã rút ngắn khoảng cách giữa hai người; hai bàn tay rụt rè siết nhẹ thăm dò ban đầu dần dà chuyển sang nhanh chóng siết chặt ấm áp, thiết tha! Truyện ngắn đầu tay Con nai nhỏ trên đoạn đường gian nan chỉ duy trì giọng kể, cái nhìn khách quan độ non trang sách dần dần hết sức tự nhiên kể theo điểm nhìn nhân vật thanh niên, một chàng trai trẻ trung, bồng bột với nhiều mơ ước lãng mạn xa xôi. Trong truyện ngắn Thị trấn bên kia suối, không khí và âm hưởng trữ tình lãng mạn xoay quanh đôi tình nhân Trinh và Trứ đã phần nào xoa dịu, chiến thắng âm hưởng và không khí nghiệt ngã, chết chóc của hiện thực đãi vàng khiến cho câu chuyện mang giọng điệu đa thanh, phức hợp, chứa đựng nhiều tầng ý nghĩa hiện thực và nhân văn.

Tính chất đa thanh, phức điệu khiến cho một số truyện ngắn của NCHBL càng đọc càng thấy duyên dáng, thú vị. Bạn thử nhẩn nha đọc lại truyện ngắn mở đầu tập Con mèo ngái ngủ mà xem. Có phải sự hòa trộn nhuần nhuyễn giữa giọng điệu trữ tình - lãng mạn và giọng điệu hài hước, hóm hỉnh trong ngôn ngữ người kể chuyện và ngôn ngữ nhân vật đã góp phần tạo nên sự quyến rũ, hấp dẫn? Truyện ngắn Con nai nhỏ trên đoạn đường gian nan xen kẽ, hài hòa giữa giọng điệu sôi nổi, bồng bột và giọng tự vấn, hồi cố của chàng trai trẻ cùng với giọng điệu kể chuyện khách quan, dồn nén, nhờ vậy, số phận bi thảm và những khát vọng của con người về tình yêu và hạnh phúc một thời chiến tranh trở nên xúc động, khắc khoải. Chuyện Ngọ xưa thực sự là một hợp âm về mặt giọng điệu. Có giọng kể khách quan của nhân vật xưng tôi đầu truyện. Có giọng kể chủ quan đa thanh, phức điệu của nhân vật xưng tôi Hoàng Ngọ suốt truyện. Đa thanh, phức điệu bởi bao gồm khá nhiều sắc thái, khuynh hướng cảm xúc: xúc động và tri ân, tự tin và tự hào, khẳng định và phê phán, tin yêu và thất vọng… của một số phận phụ nữ “trải qua những hoàn cảnh đặc biệt” từ những năm sáu mươi của thế kỉ XX đến tận thập niên đầu tiên của thế kỉ XXI đối với vô vàn những mối quan hệ chồng chéo, phức tạp từ gia đình đến xã hội. Câu chuyện gợi mở những suy cảm tinh tế, sâu sắc về những đức tính và phẩm cách của người phụ nữ Việt Nam truyền thống và hiện đại, về bản chất của nghề y, về mối quan hệ giữa đức tin và niềm tin vào cuộc sống, về mối quan hệ gắn bó sâu xa giữa cá nhân và cộng đồng…

Giọng điệu trong tác phẩm văn học nói chung, truyện ngắn nói riêng không chỉ biểu hiện cái nhìn, phong cách của nhà văn mà còn bộc lộ nội lực, triển vọng của một cây bút văn xuôi. Nhà văn Trần Trung Sáng năm nay mới ngoài sáu mươi, cái tuổi từng trải và đang độ chín muồi của một ngòi bút văn học, do vậy, chúng ta có quyền, có sơ sở hy vọng anh sẽ tiếp tục hành trình sáng tạo của mình, tiếp tục thai nghén, sinh hạ những đứa con tinh thần bụ bẫm, xinh đẹp!

P.Đ.D
(SHSDB31/12-2018)

........................................
(*) Những cuộc hẹn bên lề, Nxb. Hội Nhà văn, 2017.  
(1) Từ sau truyện ngắn đầu tay Con nai nhỏ trên đoạn đường  gian nan in trên tạp chí Bách Khoa vào năm 17 tuổi với bút danh Tần Hoa đến nay nhà văn Trần Trung Sáng đã ra mắt bạn đọc 5 tập truyện ngắn: Ngày chủ nhật tuyệt vời (1988), Cổ tích họa sĩ gù và con chim xanh (1989), Ông hoàng đu đủ (1994), Đêm trắng phập phù (2009) và Những cuộc hẹn bên lề (2017).
(2) Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi - Từ điển thuật  ngữ văn học - Nxb. Giáo dục, 1993, tr. 91.






 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • BẢO CHI                 (lược thuật)Từ chiều 13 đến chiều 15-8-2003, Hội nghị Lý luận – Phê bình văn học (LL-PBVH) toàn quốc do Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức đã diễn ra tại khu nghỉ mát Tam Đảo có độ cao 1.000 mét và nhiệt độ lý tưởng 23oc. Đây là hội nghị nhìn lại công tác LL-PBVH 28 năm qua kể từ ngày đất nước thống nhất và sau 54 năm Hội nghị tranh luận Văn nghệ tại Việt Bắc (1949). Gần 200 nhà LL-PB, nhà văn, nhà thơ, nhà báo và khách mời họp mặt ở đây đã làm nóng lên chút đỉnh không khí ôn hoà của xứ lạnh triền miên...

  • ĐỖ LAI THÚY                Văn là người                                  (Buffon)Cuốn sách thứ hai của phê bình văn học Việt Nam, sau Phê bình và cảo luận (1933) của Thiếu Sơn, thuộc về Trần Thanh Mại (1911 - 1965): Trông dòng sông Vị (1936). Và, mặc dù đứng thứ hai, nhưng cuốn sách lại mở đầu cho một phương pháp phê bình văn học mới: phê bình tiểu sử học.

  • ĐẶNG TIẾNThuật ngữ Thi Học dùng ở đây để biểu đạt những kiến thức, suy nghĩ về Thơ, qua nhiều dạng thức và trong quá trình của nó. Chữ Pháp là Poétique, hiểu theo nghĩa hẹp và cổ điển, áp dụng chủ yếu vào văn vần. Dùng theo nghĩa rộng và hiện đại, theo quan điểm của Valéry, được Jakobson phát triển về sau, từ Poétique được dịch là Thi Pháp, chỉ chức năng thẩm mỹ của ngôn từ, và nới rộng ra những hệ thống ký hiệu khác, là lý thuyết về tính nghệ thuật nói chung. Thi Học, giới hạn trong phạm vi thi ca, là một bộ phận nhỏ của Thi Pháp.

  • TRẦN CAO SƠNTriều Nguyễn tồn tại gần 150 năm, kể từ khi Nguyễn Ánh lên ngôi hoàng đế với niên hiệu Gia Long - năm1802, tạo dựng một đế chế tập quyền trên toàn bộ lãnh thổ mà trước đó chưa hề có. Trải qua một thế kỷ rưỡi tồn tại, vinh hoa và tủi nhục, Triều đại Nguyễn là một thực thể cấu thành trong lịch sử Đại Việt. Những cái do triều đình Nhà Nguyễn mang lại cũng rất có ý nghĩa, đó là chấm dứt cuộc nội chiến, tranh giành quyền lực, xương trắng máu đào liên miên mấy thế kỷ, kiến tạo bộ máy quản lý hành chính trung ương tập quyền thống nhất mà Quang Trung - Nguyễn Huệ đã dày công vun đắp gây dựng trước đó. Dân tộc đã phải trải qua những năm tháng bi hùng với nhiều điều nuối tiếc, đáng bàn đáng nói ngay ở chính hôm nay. Song lịch sử là lịch sử, đó là một hiện thực khách quan.

  • TRẦN HUYỀN SÂMNếu nghệ thuật là một sự ngạc nhiên thì chính tiểu thuyết Thập giá giữa rừng sâu là sự minh định rõ nhất cho điều này. Tôi bàng hoàng nhận ra rằng, luận thuyết: con người cao quý và có tình hơn động vật đã không hoàn toàn đúng như lâu nay chúng ta vẫn tin tưởng một cách hồn nhiên. Con người có nguy cơ sa xuống hàng thú vật, thậm chí không bằng thú vật, nếu không ý thức được giá trị đích thực của Con Người với cái tên viết hoa của nó. Phải chăng, đây chính là lời nói tối hậu với con người, về con người của tác phẩm này?

  • HOÀNG NGỌC HIẾN           ...Từ những nguồn khác nhau: đạo đức học, mỹ học, triết học xã hội-chính trị, triết học xã hội-văn hoá... cảm hứng triết luận trong nghiên cứu, phê bình văn học là nỗ lực vượt lên trên những thành kiến và định kiến hẹp hòi trong sinh hoạt cũng như trong học thuật. Những thành kiến, định kiến này có khi lại được xem như những điều hiển nhiên. Mà đã là “hiển nhiên” thì khỏi phải bàn. Đây cũng là một thói quen khá phổ biến trong nhân loại. Cảm hứng triết luận trong nghiên cứu, phê bình có khi bắt nguồn từ suy nghĩ về chính những điều “hiển nhiên” như vậy...

  • THÁI DOÃN HIỂUVào đời, Lưu Quang Vũ bắt đầu làm thơ, viết truyện, rồi dừng lại nơi kịch. Ở thể loại nào, tài năng của Vũ cũng in dấu ấn đậm đà làm cho bạn đọc cả nước đi từ ngạc nhiên đến sửng sốt. Thơ Lưu Quang Vũ một thời được lớp trẻ say sưa chép và thuộc. Kịch Lưu Quang Vũ một thời gần như thống trị sân khấu cả nước.

  • TRẦN THANH ĐẠMTrong lịch sử nước ta cũng như nhiều nước khác, thời cổ - trung đại cũng như thời cận - hiện đại, mỗi khi một quốc gia, dân tộc bị xâm lược và chinh phục bởi các thế lực bên ngoài thì trong nước bao giờ cũng phát sinh hai lực lượng: một lực lượng tìm cách kháng cự lại nạn ngoại xâm và một lực lượng khác đứng ra hợp tác với kẻ ngoại xâm.

  • ĐỖ LAI THUÝLTS: Trong số tháng 5-2003, Sông Hương đã dành một số trang để anh em văn nghệ sĩ Huế "tưởng niệm" nhà văn Nguyễn Đình Thi vừa qua đời. Song, đấy chỉ mới là việc nghĩa.Là một cây đại thụ của nền văn nghệ cách mạng Việt Nam, Nguyễn Đình Thi toả bóng trên nhiều lĩnh vực nghệ thuật. Bằng chứng qua các bài viết về ông sau đây, Sông Hương xin trân trọng dành thêm trang để giới thiệu sâu hơn, có hệ thống hơn về Nguyễn Đình Thi cùng bạn đọc.

  • ĐẶNG TIẾN…Nguyễn Đình Thi quê quán Hà Nội, nhưng sinh tại Luang Prabang, Lào, ngày 20/12/1924. Từ 1931 theo gia đình về nước, học tại Hải Phòng, Hà Nội. Năm 1941 tham gia Thanh Niên cưú quốc, 1943 tham gia Văn hóa cứu quốc, bị Pháp bắt nhiều lần. Năm 1945, tham dự Quốc Dân Đại hội Tân Trào, vào Ủy ban Giải phóng Dân tộc. Năm 1946, là đại biểu Quốc hội trẻ nhất, làm Ủy viên Thường trực Quốc hội, khóa I…

  • HỒ THẾ HÀ          Hai mươi lăm năm thơ Huế (1975 - 2000) là một chặng đường không dài, nhưng nó diễn ra trong một bối cảnh lịch sử - thi ca đầy phức tạp. Cuộc sống hàng ngày đặt ra cho thể loại những yêu cầu mới, mà thơ ca phải làm tròn sứ mệnh cao cả với tư cách là một hoạt động nhận thức nhạy bén nhất. Những khó khăn là chuyện đương nhiên, nhưng cũng phải thấy rằng bí quyết sinh tồn của chính thể loại cũng không chịu bó tay. Hơn nữa, đã đặt ra yêu cầu thì chính cuộc sống cũng đã chuẩn bị những tiền đề để thực hiện. Nếu không, mối quan hệ này bị phá vỡ.

  • JAMES REEVESGần như điều mà tôi hoặc bất kỳ nhà văn nào khác có thể nói về một bài thơ đều giống nhau khi nêu ra ấn tượng về điều gì đấy được in trên giấy. Tôi muốn nhấn mạnh rằng đây không phải là toàn bộ sự thật. Việc in trên giấy thực ra là một bài thơ gián tiếp. Sẽ dễ dàng thấy điều này nếu chúng ta đang nói về hội hoạ hoặc điêu khắc.

  • NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆP...Nguyễn Huy Thiệp không phải là người duy nhất đổi mới phương thức trần thuật. Trước ông đã có Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng... tích cực mở đường. Nhưng phải đến Nguyễn Huy Thiệp thì sự khai phóng về tư tưởng nghệ thuật mới được thể hiện một cách đậm nét. Tất cả được Nguyễn Huy Thiệp kiến tạo qua một trò chơi đầy tính bất ngờ. Giống như người nghệ sĩ ba lê tài năng, Nguyễn Huy Thiệp trình diễn một thế giới đa sắc trên đầu những đầu mũi ngón chân. Những ngón chân ấy bám trụ vào hiện thực một cách tinh diệu, xoay chuyển một cách nhịp nhàng với những vòng quay, những vũ điệu ngôn từ...

  • PHAN NGỌC THUTrong nền văn học Việt Nam thế kỷ XX, Xuân Diệu (1916-1985) là một trong những nhà thơ nổi tiếng nhất, đồng thời cũng là nhà phê bình văn học kiệt xuất. Từ những bài tranh luận văn học sôi nổi thời Thơ Mới (1932-1945) đến Tiếng thơ (1951), Những bước đường tư tưởng của tôi (1958); từ Phê bình giới thiệu thơ (1960) đến Trò chuyện với các bạn làm thơ trẻ (1961), Dao có mài mới sắc (1963), Lượng thông tin và những kỹ sư tâm hồn ấy (1978), Các nhà thơ cổ điển Việt Nam, tập I (1981), tập II (1982) và Công việc làm thơ (1984)... "chỉ tính riêng các tác phẩm lý luận phê bình, đã có thể gọi Xuân Diệu là một đại gia"(1)

  • BÙI QUANG TUYẾNThơ mới là một hiện tượng nổi bật của văn học Việt Nam nói chung và thơ ca nói riêng trong thế kỷ XX. Nó vừa ra đời đã nhanh chóng khẳng định vị trí xứng đáng trong nền văn học dân tộc với các "hoàng tử thơ": Thế Lữ, Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử v..v...

  • HÀ KHÁNH CHINgày 20 - 3 - 2003, siêu cường lớn nhất mọi thời đại là đế quốc Hoa Kỳ đã mở đầu cuộc chiến tranh kỳ quái nhất trong lịch sử bằng cách tấn công Iraq sau khi đã bắt quốc gia này phải tự phá huỷ vũ khí tự vệ của chính họ. Đó là bài học chưa hề thấy về chút hy vọng cuối cùng mà lương tri nhân loại có thể đòi hỏi. Để có thể hiểu rõ hơn những gì đang xảy ra hôm nay - có lẽ cũng rất cần ôn lại một trong những vấn đề lớn nhất mà loài người có thể nghĩ tới: cuộc chiến tranh Việt Nam đã kết thúc cách đây gần 30 năm.

  • HOÀNG ĐĂNG KHOA Văn học Việt từ sau 1975, nhất là từ thời kỳ đổi mới, là một quá trình văn học rất phong phú, đa dạng và không ít phức tạp, lại còn đang tiếp diễn. Cuốn sách Văn học Việt Nam sau 1975 - Những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy ra đời đáp ứng nhu cầu mang tính thời sự: nhu cầu nhìn nhận, đánh giá một cách khách quan, toàn diện về tiến trình văn học ba mươi năm qua, chuẩn bị cho sự ra đời của những công trình văn học sử và những chuyên khảo về giai đoạn văn học này.

  • NGUYỄN QUANG HÀTrong đời có những bài thơ người ta quên, mà chỉ nhớ một câu nằm lòng. Bởi đó là những câu thơ thực sự, những câu thơ thi sĩ. Từ xưa đến nay, đã có rất nhiều định nghĩa về thơ: Thơ là tiếng hát của trái tim; Thơ là hạt muối kết tinh của tình cảm; Thơ là phút giây rung động của tâm hồn... Nói chung, những định nghĩa ấy cho ta hiểu rằng ở đâu có được sự rung động của trái tim thì ở đó có thơ.

  • ĐỖ LAI THUÝPhê bình văn học Việt Nam, sau sự khởi nguồn của Thiếu Sơn với Phê bình và Cảo luận (1933) chia thành hai ngả. Một xuất phát từ Phê bình để trở thành lối phê bình chủ quan ấn tượng với Hoài Thanh và Thi nhân Việt Nam (1942). Lối kia bắt nguồn từ Cảo luận tạo nên phê bình khách quan khoa học với Vũ Ngọc Phan của Nhà văn hiện đại (1942), Trần Thanh Mai của Hàn Mặc Tử (1941), Trương Tửu của Nguyễn Du và Truyện Kiều (1942), Tâm lý và tư tưởng Nguyễn Công Trứ (1945). Sự phân chia này, dĩ nhiên, không phải là hành chính, mà là khoa học, tức sự phân giới dựa trên những yếu tố chủ đạo, nên không phải là không thể vượt biên. Bởi, mọi biên giới đều mơ hồ hơn ta tưởng, nhất là ở khoa học văn chương.

  • LTS: Marcel Reich-Ranicki, sinh năm 1920, người ở Đức được mệnh danh là "Giáo hoàng văn học", là nhà phê bình văn học đương đại quan trọng nhất của CHLB Đức. "Một lời biện hộ cho thơ" là bài thuyết trình đọc vào ngày 30.11.1980 nhân dịp ra mắt Tập 5 của "Tuyển thơ Frankfurt" trong khuôn khổ chuyên mục thơ của nhật báo "Frankfurter Allgemeine Zeitung" (FAZ) mà tác giả là chủ biên phần văn học từ 1973 đến 1988.Sông Hương xin trân trọng giới thiệu bài "Một lời biện hộ cho thơ" của ông sau đây do dịch giả Trương Hồng Quang thực hiện.