Sáng ngày 23/9, Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật Thừa Thiên Huế đã tổ chức chương trình giới thiệu tập thơ “Quê mẹ” của nhà thơ Tố Hữu do Liên hiệp Các Hội VHNT Thừa Thiên Huế ấn hành. Chương trình nhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà thơ Tố Hữu (4/10/1920 - 4/10/2020).
Tham dự chương trình có Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm, nguyên Ủy viên Bộ chính Trị, nguyên Trưởng ban Tư tưởng văn hóa Trung ương, Ông Bùi Thanh Hà, Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy tỉnh Thừa Thiên Huế cùng đông đảo văn nghệ sĩ tỉnh Thừa Thiên Huế.
Tập thơ “Quê mẹ” bao gồm những bài thơ nhà thơ Tố Hữu viết ở Huế, viết về Huế, hoặc có nhắc đến quê hương Thừa Thiên Huế như: Tiếng hát Sông Hương, Về quê, Huế tháng tám, Quê mẹ, Huế lại huy hoàng... Tập thơ như là tấm lòng của văn nghệ sỹ Thừa Thiên Huế hôm nay dành tri ân, tôn vinh nhà thơ Tố Hữu nhân 100 năm ngày sinh của ông.
![]() |
Đại diện lãnh đạo tỉnh cùng đông đảo văn nghệ sĩ đến tham dự |
Nhà thơ Tố Hữu - người chiến sỹ cộng sản kiên cường, nhà hoạt động chính trị xuất sắc, nhà thơ lớn - đã trọn đời cống hiến cho sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc Việt Nam. Tố Hữu là biểu tượng rực rỡ của sự kết hợp đẹp đẽ giữa lý tưởng và sự nghiệp, cách mạng và thi ca. Ông được xem là người có công khai sáng và dẫn dắt nền thi ca và văn học cách mạng Việt Nam. Với tài thơ thiên bẩm, ông mở ra một trường phái thơ mới – thơ cách mạng, mà trong đó, nghệ thuật hiện đại đã kết hợp một cách nhuần nhị, tinh tế với truyền thống thơ dân tộc. Thơ Tố Hữu đã trở thành một biểu tượng của thi ca cách mạng, là ngôi sao sáng nhất và dẫn đầu nền văn học cách mạng Việt Nam.
![]() |
Nhà văn Hồ Đăng Thanh Ngọc - Chủ tịch Liên hiệp các Hội VHNT Thừa Thiên Huế phát biểu tại chương trình |
Trong cuộc đời sáng tác, Nhà thơ Tố Hữu đã để lại cho đời rất nhiều những tác phẩm có giá trị như các tập thơ: “Từ ấy” (1946), “Việt Bắc” (1954), “Gió lộng” (1961), “Ra trận” (1962 - 1971), “Máu và hoa” (1977), “Một tiếng đờn” (1992), “Ta với ta” (1999); các tiểu luận “Xây dựng một nền văn nghệ lớn xứng đáng với nhân dân ta, thời đại ta” (tiểu luận, 1973), “Cuộc sống cách mạng và văn học nghệ thuật” (tiểu luận, 1981).
![]() |
Nhà thơ Mai Văn Hoan chia sẻ về " Ngôn ngữ thơ Tố Hữu" tại chương trình |
Nhà thơ Tố Hữu sinh ra nơi miền quê ven sông Bồ, làng Phù Lai, xã Quảng Thọ, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế. Từ nhỏ ông được tắm gội trong lời ru của mẹ, thừa hưởng vốn ca dao, dân ca xứ Huế với bao làn điệu mái nhì, mái đẩy, câu Nam ai, Nam bình… Từ Huế, ông làm thơ cho mọi nhà, mọi người, mang âm hưởng hồn cốt văn hóa Huế, nhịp điệu Huế, ngôn ngữ Huế… Từ thế giới âm điệu bay bổng của Thơ Mới và bình dị dìu dặt của ca dao dân ca, niềm hưng phấn lên đường đầy lý tưởng đã vang vọng, hòa quyện tạo nên tiếng thơ Tố Hữu khởi sáng lúc bấy giờ.
![]() |
Nhà văn Phạm Xuân Phụng với tham luận Tiếng Huế trong thơ Tố Hữu |
Quê hương Thừa Thiên Huế chính là nơi khởi nguồn bồi đắp lý tưởng, bầu nhiệt huyết cách mạng, bầu khí quyển thi ca của nhà thơ Tố Hữu. Tình cảm của nhà thơ đối với quê hương thật đậm đà da diết. Từ những ngày đầu đến với cách mạng rồi sớm xuất hiện trên văn đàn, những bài thơ ban đầu của Tố Hữu đều được bắt đầu từ Huế. “Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ/ Mặt trời chân lý chói qua tim” là những vần thơ có sức mạnh như một nguồn năng lượng tinh thần vô giá với hàng triệu con tim. Thơ Tố Hữu có sức lan tỏa rất lớn và cũng mang đậm hồn thơ xứ Huế.
![]() |
Nhà văn Dương Phước Thu chia sẻ về sự nghiệp làm báo của nhà thơ Tố Hữu |
Tố Hữu là một người con quê hương Thừa Thiên Huế tiêu biểu, một trong những ngọn đuốc trên đỉnh Ngự soi sáng dòng Hương. Quê hương Thừa Thiên Huế tự hào đã sinh ra ông, bên cạnh những tên tuổi chói ngời khác của Thừa Thiên Huế. Tên nhà thơ Tố Hữu được đặt tên đường, tên trường ở thành phố Huế, các huyện Quảng Điền, các thị xã Hương Trà, Hương Thủy… Một không gian thi ca Tố Hữu được xây dựng ở Quảng Điền, ngay bên dòng sông Bồ xanh trong mà nhà thơ Tố Hữu thường nhắc đến trong thơ ông.
Phương Anh
Triều đại phong kiến vua Nguyễn cuối cùng tại Huế đã trải qua với bao biến cố lịch sử. Hàng vạn cổ vật quý hiếm đi cùng triều đại này hiện đã mất mát quá nhiều, không còn “ở lại” được trên mảnh đất nó đã từng tồn tại.
Hai đồng tiền cổ quý hiếm là loại tiền dùng để ban thưởng chứ không dùng để trao đổi, mua bán có tên là “Gia Long thông bảo” và “Minh Mạng thông bảo” với kích thước rất lớn vừa được một người dân ở Quảng Bình lần đầu phát hiện.
Với một di sản văn hoá vật thể và tinh thần mang ý nghĩa quốc hồn quốc tuý của dân tộc, Huế là một hiện tượng văn hoá độc đáo của Việt Nam và thế giới.
Huế từ lâu đã là một trung tâm văn hóa, du lịch của cả nước. Festival văn hóa nghệ thuật kết hợp với du lịch đã tạo cú hích cho thế mạnh đặc thù của quần thể di tích cố đô Huế - được công nhận là di sản thế giới vào năm 1993, từ đó tạo diện mạo cho Huế có sự phát triển mới, mạnh mẽ hơn.
Lọng là sản phẩm độc đáo được dùng để tôn vinh sự trang trọng, quý phái trong các nghi lễ của triều đình xưa, cũng như trong các lễ nghi cúng tế mang đậm tín ngưỡng dân gian. Từ đám rước thần linh, đám tang, lễ cưới, hỏi… đều có sự hiện diện của chiếc lọng.
Trong kiến trúc xưa, có lẽ không nơi nào có nhiều bức bình phong như ở Huế. Khắp các cung đình, phủ đệ, đến các đền chùa, am miếu, đình làng, nhà thờ họ và nhà thường dân…đều hiện hữu những bức bình phong.
Võ tướng Nguyễn Tri Phương đã dành cả đời ông trong công cuộc giữ yên bờ cõi và chống ngoại xâm trải qua ba đời vua Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức. Khi Hà thành thất thủ vào tay quân Pháp, ông đã nhịn đói cho đến chết.
Gần đây có một bộ tranh chân dung của các vua triều Nguyễn được vẽ mới và phổ biến, thu hút được nhiều sự chú ý của người xem. Nếu chỉ thưởng thức các bức vẽ này như những ảnh vui mắt, đầy mầu sắc thì được.
Vua Gia Long lên ngôi năm 1802 và qua đời năm 1820, thọ 57 tuổi. Trong tập Ngự dược nhật ký của châu bản triều Nguyễn, cho thấy những năm cuối đời nhà vua đã mắc bệnh nan y và các ngự y đã phải vất vả để điều trị.
“Toàn bộ cuốn sách làm bằng bạc mạ vàng, chỉ có 5 tờ (10 trang) nhưng nặng tới 7 ký, xuất hiện vào thời vua Thiệu Trị (1846), có kích cỡ 14×23 cm..."
Khi nói Huế rặt, tôi muốn kể chuyện chỉ có Huế mới có, không lẫn vào đâu được ...
Phó giáo sư, Nhà giáo nhân dân Trần Thanh Đạm vừa qua đời lúc 8g15 ngày 2-11 (nhằm ngày 21 tháng 9 Ất Mùi), hưởng thọ 84 tuổi.
Đang những ngày mưa ở Huế tháng 10 này, lại nhắc đến mưa Huế, liệu đây có phải là đặc sản của Huế của mùa thu Huế, nhưng Huế làm gì có mùa thu? Hay là mùa thu Huế quá ngắn đến mức nhiều người không kịp nhận ra...?
Chiều 30-10, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Thừa Thiên - Huế phối hợp Hội Khoa học Lịch sử tỉnh và Công ty CP Du lịch và Tiếp thị Giao thông vận tải Việt Nam (Vietravel) tổ chức Hội thảo khoa học “Cung điện Đan Dương thời Tây Sơn tại Huế” diễn ra tại Hội trường UBND tỉnh Thừa Thiên - Huế.
Di tích Tam Tòa nằm ở góc đông nam bên trong Kinh thành cách bờ bắc sông Hương 300m về phía nam, qua cửa Thượng Tứ. Khu di tích Tam Toà toạ lạc tại số 23 đường Tống Duy Tân, phường Thuận Thành, thành phố Huế.
Từ năm 2012 đến nay, Hội Đông y Thừa Thiên-Huế đã tiếp cận và giải mã kho tư liệu châu bản triều Nguyễn đang được lưu trữ tại Trung tâm lưu trữ quốc gia 1 (Hà Nội).
Xứ Huế không chỉ có các công trình lăng tẩm cổ kính mà còn được thiên nhiên ưu đãi ban cho sự hùng vĩ. Nổi bật trong đó là đầm Lập An với vẻ đẹp say đắm lòng người.
Để có thể lực cường tráng, chăn gối viên mãn, ngoài thuốc men tẩm bổ, Minh Mạng còn rèn luyện sức khỏe bằng phương pháp mà ngày nay rất phổ biến.
Hệ đầm phá Tam Giang - Cầu Hai (Thừa Thiên-Huế) không chỉ là hệ thủy vực nước lợ lớn nhất Đông Nam Á mà nơi đây còn có những câu chuyện đầy kỳ bí được ghi chép hoặc truyền miệng từ xa xưa.
Đề cao vai trò cũng như trách nhiệm của người phụ nữ trong gia đình cũng như trong xã hội, lần đầu tiên tại Huế, cũng là lần đầu tiên ở nước ta, có một tổ chức giáo dục đã nêu rõ quan điểm, lập trường, bảo vệ quyền của người phụ nữ: trường Nữ Công học hội.