Gió qua Phương Bối

15:38 16/10/2017

NGUYỄN ĐÌNH MINH KHUÊ
                        Tạp bút

1
Những ngày này trời Phương Bối chắc cũng đã chuyển thu. Nhưng ngày thu, khí thu, vị thu, hoặc có chăng thì lòng người đã thu thôi, chứ sắc thu vàng rực cháy đỏ của những xứ ôn đới xa xôi làm sao lần mò được đến tận chốn này khi vây quanh Phương Bối là bạt ngàn thông gió.

Những đồi thông xanh rợp rủ bóng thầm thì, đạo mạo cái dáng vẻ ẩn sĩ giữa đại ngàn trầm mặc và thâm u. Thông xanh đến nỗi nhuộm màu rong rêu lên cả những con gió vẫn âm thầm len lỏi qua rừng đồi. Những con gió Phương Bối cô tịch, chì nặng, xa xăm như mang chứa bên trong cái dáng vẻ vô hình thanh thoát của mình cả kho ký ức về biết bao vùng hoài niệm mà nó từng đi qua trong đời phiêu bạt.

Gió kể cho những lữ khách của núi rừng câu chuyện về cái tên Phương Bối mà thiền sư Nhất Hạnh, không biết trong buổi tinh mơ thơm tho nào, đã nghe mùi hương của một loài cây cỏ mà xuất hứng gọi thành cái tên mỹ miều kia. “Phương Bối” có nghĩa là lá bối thơm, loại lá dùng để chép kinh sách từ thời cổ ở vùng Ấn Độ. Từ những chiếc lá kia, lời Phật chảy tràn ra khắp sông suối rừng đèo. Có chiếc ta bà du lãng cõi người, nhưng cũng có chiếc đã chịu nằm lại nơi một cảnh rừng, một dốc đèo, chao nghiêng tỏa lan cái thơm tho vô sắc.

Nhưng nói như thế thì chiếc bối thơm nào, những lời của ngàn năm nào đã chọn dừng chân nơi đây, nơi đồi Phương Bối đào nguyên này của thầy Nhất Hạnh?

2
Trong những giây phút nấn níu lại với rừng đèo, gió cũng kể cho người ta nghe về những tay chơi thơ giữa khinh khoái đại ngàn, những người thơ của một thời vàng son quá vãng đã ương ngạnh trước bao sóng gió cay đắng, quyết không chịu bay về phía bên kia đại dương mà chấp nhận lầm lũi giữa lưng chừng thông reo Phương Bối này, chỉ để được gần Mẹ đất da vàng máu đỏ. Người thơ ấy là Nguyễn Đức Sơn. Người thơ ấy hồn linh ướt nhèm vì dòng nước thánh tuôn ra từ người đàn bà mà ông mê đắm. Người thơ ấy bay giữa nắng thu vàng mà cạp lấy cùng dòi bọ một quả ổi rơi. Và người thơ ấy cũng lẩm nhẩm đọc một thoáng kinh cầu cho quê hương:

“Quê mình ai còn ai mất
Đi rồi gươm súng mùa thu
Khóc mãi từng đêm lưu lạc
Nói ra thêm oán thêm thù”


Ngày chúng tôi lên Phương Bối, gươm súng đã tan, chỉ còn những vạt mưa thu lất phất trên đầu. Song người thơ ấy, sau cơn lầm lụy điên đảo vẫn còn sân sẩn, khỏe mạnh lắm, vẫn chống gậy, khuôn miệng nhăn nheo móm mém, bước đến chùa Sim của cư sĩ Đức Vân con trai ông, với dáng vẻ của một lão tiên nơi tục lụy tuy đâu đó vẫn váng vất vẻ ngổng nghểnh, ngang tàng chưa đi mất bao giờ. Chúng tôi ăn với ông một bữa cơm chay, rồi tiễn ông về trên chiếc Cup trông vẻ cà tàng nhưng đã quen leo đèo dốc.

Đường về nhà Nguyễn Đức Sơn đi qua một trảng rừng thông, càng vào sâu cây càng ken đặc, âm ẩm sương mù. Lối đất đỏ mỏng mảnh vòng vèo giữa những bụi cây dại chưa kịp nở hoa, hình như càng ngày càng nhỏ lại, lẩn khuất hẳn vì có bao người còn đến đây đâu, có bao người còn nhớ được rằng hơn ba mươi năm trước, từng có một trong tam kỳ nhân của giới văn nghệ Sài Gòn đã về đây, bỏ lại sau lưng đoạn đời đánh mất và dành cả quãng đời còn lại của mình cho núi rừng, ăn chay, tụng niệm cho một thời quên nhớ …

Trước cửa nhà ông là một bộ bàn ghế đơn sơ, nằm gần sát bờ vực thấp. Ngồi từ chỗ ấy, vừa nhâm nhi tách chè xanh nóng, vừa có thể phóng tầm mắt ra gần cây số để ngắm những dải mây mù bay bay vào những buổi tinh mơ sương giáng hay những hoàng hôn chuyển lạnh trong vầng ráng rực rỡ nhuộm đỏ sắc trời. Ngồi từ chỗ ấy, Nguyễn Đức Sơn sẽ móm mém đọc cho nghe một bài thơ, sẽ phóng khoáng văng tục, phóng khoáng tư lự, phóng khoáng cười buồn. Ngồi từ chỗ ấy, sẽ thấy mấy mươi năm ngồi lại, âm thầm, kiêu bạc, chân vắt chữ ngũ uống với người một vần thơ.

Vậy mà chẳng ai đến ngồi, duy chỉ có rong rêu u tịch…

3
Trong những bước rong ruổi qua miền rừng đèo này, gió còn kể rằng, nó vẫn thấy thấp thoáng một cái am bé xinh nằm chìm trong những bụi sim tím ngắt. Sim Phương Bối cao gần ngang đầu người lớn, đã nở hoa suốt hơn chục mùa từ lúc được sư thầy Nguyễn Đức Vân lần đầu gieo cấy xuống những luống đất đèo cằn khô.

Tuy vậy, lúc chúng tôi lên đến chùa Sim, tiếc thay, màu sim tím chỉ còn lác đác điểm tô cho mùa thu Phương Bối bởi loài hoa của rừng này đã lần lượt bung nở hết từ những tháng hè. Nhưng trong cái rủi có cái may. Chẳng biết thế nào, vừa nghe chúng tôi có ý tiếc rẻ, thầy Đức Vân lật đật chạy ra dốc vườn sau chùa rồi thủng thỉnh đi vô, trên tay cầm một nắm lá chè xanh tươi rói như an ủi.

Chiều Phương Bối rơi nhanh vào cái đen kịt lành lạnh của đêm thu. Từ cái bếp đun nước sôi của thầy Vân, mấy sợi khói lãng đãng bay lên với cuồn cuộn những nỗi niềm, rồi chẳng biết tự lúc nào đã tan loãng hòa điệu vào cái thinh lặng muôn trùng của đồi thiền Phương Bối.

Chúng tôi ngồi quây quần lại bên thầy, bên những bát nước chè xanh, bên những câu thơ hào sảng lồng lộng như hơi thở. Trong giờ khắc chơi vơi giữa đêm sương thu ấy, hình như mọi mệt nhoài sau chuyến đi hơn ba trăm cây số của chúng tôi thoảng đi đâu đó rất nhanh. Chỉ còn lại đâu đây chút lãng đãng mơ hồ, chút bồng bềnh trong vắt. Chúng tôi bỗng chốc hóa thành mấy ngọn sương mù, những cuộn mây giăng giăng hay một cánh chim đi lạc nào ngoài kia đang chở trên đôi cánh chao nghiêng cả đêm thu Phương Bối…

4
Cũng chẳng biết cái đồi thông sừng sững giữa cao nguyên Bảo Lộc kia có thứ gì hấp dẫn mà bao nhiêu cuộc đời tài hoa lại rong ruổi về đây, lại chịu nắng dầm sương, lại trồng sim thưởng trà giữa thinh không này, từ thầy Nhất Hạnh, Thích Thanh Từ đến Nguyễn Đức Sơn, rồi giờ đây là Nguyễn Đức Vân và Nguyễn Đức Yên nữa.

Đức Yên là con thứ của Nguyễn Đức Sơn, em của cư sĩ Đức Vân. Hai anh em không lấy vợ, sống đời thiền hành. Nhưng khác với anh, Đức Yên ở lại với cha trong căn nhà gỗ giữa rừng thông bên bờ vực cạn, chăm sóc nấu nướng cho cha, dẫn cha đi chơi.

Hình như trong mấy phút rảnh rỗi, Yên vẫn hay làm thơ. Anh từng đọc cho chúng tôi nghe một câu thật hay rằng “Nếu có luân hồi ta cưới em”.

Vâng, nếu có luân hồi thật, kiếp sau chúng tôi cũng nguyện làm những cơn gió tịch liêu để ngày ngày vẫn thổi qua đồi sim Phương Bối này, dâng lên những con người tài hoa này một lời chào tiếc nhớ…

Để nhớ một mùa Phương Bối, tháng 8/2017
N.Đ.M.K  
(SHSDB26/09-2017)




 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • LÊ HUỲNH LÂMCó thể gọi xứ Huế là thành phố của những tiếng chuông. Sự khởi đầu của một ngày, một ngày mai hun hút trong tương lai cũng như một ngày tận trong nghìn trùng quá khứ. Một ngày mà âm thanh từ đại hồng chung phát ra; vang, ngân, vọng và im bặt. Người ta gọi âm thanh đó là tiếng chuông. Vậy thì, im bặt cũng là một phần của tiếng chuông.

  • MINH CHUYÊNCảnh làng mới Trà Tân cuối chiều mùa đông. Con suối chảy qua nước trong veo, róc rách. Phía tây con suối cách làng chừng nửa tầm mắt là rừng Sắc Rông, đủ các loại cây tầng tầng, lớp lớp. Cánh rừng đang chìm trong sương chiều. Rừng hoang vắng, huyền bí. Người ta kể sau ngày chiến tranh chấm dứt, rừng Sắc Rông càng trở nên bí ẩn. Người chỉ có vào mà không có trở ra. Vậy mà mấy tháng gần đây lại thường xuyên xuất hiện một người đàn bà ở đó.

  • PHẠM NGUYÊN TƯỜNGNgày xưa nhà mẹ nghèo hung, cơm không có ăn, khố không có mặc, suốt ngày lang thang trong rừng đào củ mài củ sắn kiếm cái cho vào bụng. Có ngày không tìm được chi, bụng đói lắc lư.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊTrước ngày Huế khởi nghĩa 23/8/1945, có một sự kiện khiến cả thành phố náo nức vui mừng: đó là việc lá cờ đỏ sao vàng được kéo lên đỉnh cột cờ Huế ngày 21/8 thay cho cờ quẻ ly. Người chiến sĩ được đồng chí Trần Hữu Dực trực tiếp giao nhiệm vụ quan trọng ấy là chàng thanh niên 25 tuổi Đặng Văn Việt (ĐVV).

  • NGUYỄN QUANG HÀTạp chí văn nghệ của 6 tỉnh Bắc miền Trung gồm: Xứ Thanh, Sông Lam, Hồng Lĩnh, Nhật Lệ, Cửa Việt, Sông Hương có một cam kết thú vị, luôn luôn trong nỗi chờ mong là mỗi năm anh chị em trong tạp chí thay nhau đăng cai luân phiên, mỗi năm gặp nhau một lần, ở thời điểm thích hợp nhất do tạp chí đăng cai tự chọn.

  • NGUYỄN THỊ ANH ĐÀOTháng bảy, nồng nàn hương lúa mới trên những ruộng lúc mới vừa mùa gặt tháng 5, mùi rơm rạ kéo tôi ra khỏi thế giới của những đường phố xênh xang, đầy bụi và chật người. Tôi leo lên một tầng gác và nhìn về hướng quê tôi, hình dung đủ thứ nhưng nhớ vẫn là khói lam chiều với dáng mẹ tôi gầy cong như đòn gánh.

  • VĨNH NGUYÊNPhải nói tôi có ý định dông một chuyến xe máy ra Bắc đã lâu mà chưa có dịp. Nay có điều kiện để đi song tôi vẫn băn khoăn, không hiểu chuyến đi này mình sẽ gặp những ai đây? Hay là phải thở dài dọc đường xa với những cảnh đời khốn khó? Thôi thì tôi chỉ biết đi và đi.

  • VÕ MẠNH LẬP                Ghi chépNhân vật Mười Hương nhiều người đã biết đến qua sách báo và đặc biệt là vùng đất Nam Bộ - Sài Gòn.

  • DƯƠNG THÀNH VŨTrong đêm mỏng yên tĩnh dịu dàng, một mình một cõi với ly rượu trắng, cùng mùi hương của hoa rộn ràng, huy hoàng phát tiết; tôi miên man nhớ tới cõi người đến- cõi người đi nơi xa chốn gần, thời gian tuyến tính lẫn thời gian phi tuyến tính.

  • NHẬT HOA KHANH Mười năm những mấy ngàn ngày... (Tố Hữu: Mười năm )

  • TRUNG SƠNĐoàn văn nghệ sĩ Thừa Thiên - Huế (TTH) lên đường “đi thực tế” một số tỉnh phía Bắc vào lúc lễ giỗ Tổ ở đền Hùng (10 tháng 3 âm lịch) vừa kết thúc. Tiền có hạn, thời gian có hạn chưa biết sẽ tới được những đâu, nhưng ai cũng “nhất trí” là phải lên Phú Thọ thăm Đền Hùng, dù lễ hội đã qua.

  • ALẾCHXĂNG GRINTại Luân Đôn, mùa xuân năm 1921, có hai ngài trung niên ăn mặc sang trọng dừng chân ở góc đường, nơi phố Pakađilli giao nhau với một ngõ nhỏ. Họ vừa ở một tiệm ăn đắt tiền đi ra. Ở đó, họ đã ăn tối, uống rượu vang và cùng đám nghệ sỹ của nhà hát Đriuđilenxky đùa cợt.

  • PHONG LÊQuê tôi là một xã nghèo ven chân núi Mồng Gà, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh. Từ Hà Nội, việc về thăm quê, đối với tôi không mấy khó khăn. Hồi là sinh viên thì mỗi năm hai lần, lần nghỉ hè lần nghỉ Tết. Khi đã là cán bộ, có gia đình thì mỗi năm một lần, cả nhà dắt díu về, với hai hành trình là tàu hoả từ Hà Nội vào Vinh, rồi là xe đạp từ Vinh về nhà.

  • NGUYỄN TRỌNG HUẤNBạn tôi là nhà thơ. Thơ ông hay, nổi tiếng, nhiều người ái mộ. Thời buổi “nhuận bút không đùa với khách thơ”, kinh tế khó khăn, gia đình ông vẻ như cũng “rất ư  hoàn cảnh”.

  • ĐẶNG NHẬT MINHGia đình tôi ở Huế có một cái lệ: cứ vào dịp trước Tết tất cả nhà cùng nhau lên núi Ngự Bình quét dọn, làm sạch cỏ trên những nấm mộ của nhũng người thân đã khuất. Sau đó trở về nhà thờ của dòng họ, cùng nhau ăn một bữa cơm chay. Cái lệ đó người Huế gọi là Chạp. Ngày Chạp hàng năm không cố định, có thể xê dịch nhưng nhất thiết phải trước Tết và con cháu trong gia đình dù đi đâu ở đâu cũng phải về để Chạp mộ.

  • DƯƠNG PHƯỚC THUMùa xuân năm Đinh Mùi, 1307, tức là chỉ sau có mấy tháng kể từ ngày Công chúa Huyền Trân xuất giá qua xứ Chàm làm dâu, thì những cư dân Đại Việt đầu tiên gồm cả quan binh gia quyến của họ, đã rời khỏi vùng châu thổ sông Hồng, sông Mã theo chân Hành khiển Đoàn Nhữ Hài, vượt qua ngàn dặm rừng rậm, núi cao, biển rộng đến đây cắm cây nêu trấn yểm, xác lập chủ quyền quốc gia.

  • NGUYỄN XUÂN HOÀNGNhững ngọn gió heo may cuối cùng đã tắt. Nắng buổi sáng hanh vàng ngoài bến sông. Hàng cây trên phố Huế đã chừng như thay lá, lung linh một màu lá tơ non, mỏng như hơi thở của bầy con gái trường Hai Bà Trưng đang guồng xe đạp đến trường. Mùa xuân đã về bên kia sông. Đã về những cánh én nâu đen có đôi mắt lay láy màu than đá. Đã về những đóa hoa hoàng mai, vàng rưng rức như một lời chào ngày tao ngộ...

  • TÔ VĨNH HÀCon chó Giắc nhà tôi đẹp nhưng mà hư quá. Tôi hét nó nằm thì nó cứ giương mắt ra, rồi ngồi. Tôi không cho nó chạy vào nhà vì sợ nó làm bẩn cái nền nhà vừa lau thì nó đi vòng cửa sau, khi tôi ra cửa trước. Bực nhất là ngày lễ - nói chung là những ngày có việc, bất cứ ai vào nó cũng sủa rộn ràng. Tôi thì không muốn xóm giềng để ý. Vậy mà chó có biết cho tôi đâu...

  • PHẠM NGUYÊN TƯỜNGGhi chép 1.Tôi tự đặt ra một “hạng mục” đinh cho chuyến đi thực tế sáng tác ở A Lưới lần này, và hạ quyết tâm thực hiện bằng được, đó là: phải lên được Đồi Thịt Băm!

  • LGT: Liên Thục Hương là một nhà văn Trung Quốc đương đại, tự ví mình là con mèo đêm co mình nằm trên nóc nhà, nhìn cuộc sống thành phố tấp nập đi qua đáy mắt. Liên Thục Hương còn ký bút danh Liên Gián, có số lượng bản thảo lên tới hơn hai triệu chữ. Năm 2003, “Bài bút ký đầy nước mắt” đã được post lên mạng và năm 2004 nó đã được dựng thành phim và bộ phim ngắn này làm tiền đề cho tác phẩm điện ảnh đoạt giải thưởng của Trung Quốc. Sông Hương xin giới thiệu câu chuyện này qua bản dịch của nữ nhà văn Trang Hạ.