ĐỖ TẤN ĐẠT
(Nhân đọc tập thơ “Nhật ký gió cuốn” - Nxb. Văn học 2018 của tác giả Phạm Tấn Dũng)
Ảnh: netquang
Gồm hơn 40 bài thơ tự do trong tập thơ dày hơn 120 trang. Nhật ký gió cuốn của Phạm Tấn Dũng đã thổi một luồng gió Thu Bồn vào thơ với nhiều hơi ấm quê hương và ký ức sống.
Tác giả sinh ra ở Điện Bàn, Quảng Nam đã trình làng cuốn “Nhật ký quê hương” qua giọng thơ có phần sâu lắng ăm ắp nỗi niềm.
Thơ anh thể hiện rõ nguồn cảm hứng nội tâm, ở đó bắt gặp được người đàn ông quá nửa đời người bắt đầu thấy sự trở về qua những giấc ngủ bị cứa sâu:
Bên kia bức tường nhà có tiếng thủy tinh vỡ/ tôi bật dậy/ nỗi nhớ không tròn/ có thể là vết cứa vào hư không/… (Vết cứa).
Để rồi “những đứa con Thu Bồn” trong anh thức dậy nhen nhóm lửa ký ức:
Nhánh hoa mua như cứa vào chiều/ những đứa con Thu Bồn vác núi lên vai/ cõng gió cõng nắng cõng những thân phận lục bình trôi dạt (Thu Bồn).
Ký ức về quê hương đó là một ký ức đầy trắc trở, gió sương của mưu sinh thường nhật cho đến giấc ngủ mớ ban đêm:
Những đứa con Thu Bồn/ mệt nhoài bốn phương gió bão/ rưng rức khóc thầm núi cháy sông khô/
Thương kiếng nhớ quê ngày đi tháng ở/ chiều về nhai giấc chiêm bao/ rồi mơ hoang mớ hoảng/ lấy nạng chống trời đêm/ (Thu Bồn).
Phạm Tấn Dũng không cầu kỳ quá về ngôn ngữ, thơ anh viết như kiểu thổi bong bóng mà không cần lấy hơi. Nhưng nếu chúng ta đọc kỹ cũng sẽ dễ bị cuốn theo tiếng lòng của tác giả. Có những bài mà theo tôi, anh đã thành công khi mang về cho bạn đọc những chiếc vé tàu ký ức nhiều màu sắc và dư âm của vùng đất Điện Bàn, Quảng Nam:
đã ngùi ngùi đầu làng Thi Lai Hà Mật/ tiếng guốc khua đều sạp chợ Phú Bông/ tiếng chim gù bồi hồi giữa trưa Đông Bàn/ giữa chiều Bàn Lãnh/ tiếng còi tàu chiều tà ga Xuân Đài gạt thầm nước mắt tiễn đưa/ tiếng dệt lụa ươm tơ làng Bảo An trăm năm còn vọng.../ (Quê Hương).
Kể cả khi bạn không là người Quảng, kể cả khi bạn không phải là người Quảng tha hương, tôi tin rằng bạn sẽ chùng lòng xuống rất lâu khi nghe những câu thơ này:
Ôi quê hương quê hương quê hương/ những lần khóc/ có người tha hương ngay trên quê mình/ tôi này nói với tôi/ quê mình Gò Nổi/... (Quê hương).
Không dễ để đọc được hết tập thơ một lần, đặc biệt là thể loại thơ tự do càng cần sự chiêm nghiệm và thời gian. Bên cạnh những bài thơ suy tư về quê hương cố xứ, Phạm Tấn Dũng cũng chen vào những bài anh viết cho anh về những giấc mơ cuộc đời, giấc mơ số phận. Và có đôi lúc thấy Phạm Tấn Dũng trở về với chiếc kèn lá chuối trong đứa trẻ năm mươi:
- nhiều khi nhiều khi/ đi/ về/ thổi chiếc kèn lá chuối/ thằng bé năm mươi năm nhặt tiếng chim rơi/ (Tiếng chim rơi).
- giấc mơ đàn ông/ ở quán trọ đời tạm/ trệu trạo nhai nắng chiều/ nắng rồi cũng phai/ đau rồi cũng nhạt/.
cơn mơ đàn ông/ như bức tranh phản sáng của ngày không sắc/ tóm tém đóa trẻ thơ/ giẫm lên chân trần/ lội lên vũng tối vỡ đôi bóng mình. (Những mảnh vo tròn).
Phạm Tấn Dũng cũng có một thời theo nghề vẽ nhưng nghe anh kể là không thành công. Bắt gặp đâu đó những nét vẽ tình yêu lãng mạn đẹp buồn của anh trong bài thơ Bức Tranh:
đêm qua mưa/ sao riêng mình em ướt/ em giấu nỗi buồn đi đâu/ những hạt mưa góa bụa/ mặc tháng năm già nua chạy dọc trên đầu/
Đêm qua mưa/ đêm dài hơn dấu chấm câu/ tôi không biết và em không biết/ em giấu nỗi buồn trong tôi/ câu thơ vừa ngủ trong tranh/
Nhật ký gió cuốn là tập thơ không quá đánh đố và ẩn dụ về câu chữ. Thơ anh dễ khơi gợi sự rung cảm cho người đọc bằng chính tình yêu quê xứ, bằng chính nỗi lòng của một gã đàn ông ngoài năm mươi đầy trắc ẩn với cuộc đời. Và tôi tin lời nhà thơ người Ý, Salvatore Quasimodo: “Thơ là sự mặc khải rằng người làm thơ tin rằng cảm xúc của họ chính là tiếng lòng của độc giả”. Nhật ký gió cuốn là tập thơ giàu tính trải nghiệm của tác giả về cuộc sống. Mặc dầu quê hương cũng là chủ đề đã rất quen thuộc trong thơ ca. Nhưng hẳn sau khi đọc tập thơ này có thể tôi cũng như bạn sẽ nhận ra một dấu chấm lửng cho những ai đang luôn đau đáu một nỗi niềm nguồn cội?
Đ.T.Đ
(SHSDB34/09-2019)
Thơ PHẠM TẤN DŨNG
Thu Bồn
nhánh hoa mua như cứa vào chiều
những đứa con Thu Bồn vác núi lên vai
cõng gió cõng nắng cõng thân phận lục bình trôi dạt
dọc ngang bãi bờ lau xanh rêu cỏ
xô rớt những câu thơ
nhịp nhịp vui buồn
khép
mở
cánh thời gian
những đứa con Thu Bồn
mệt nhoài bốn phương gió bão
rưng rức khóc thầm núi cháy sông khô
thương kiểng nhớ quê ngày đi tháng ở
chiều về nhai giấc chiêm bao
rồi mơ hoang mớ hoảng
lấy nạng chống trời đêm
Thu Bồn Thu Bồn
từ thượng nguồn đến sóng xô Cửa Đại
những mưa ướt dấu chân
những tiếng hát chật lên nắng gió
những nụ hôn đất nâu ngẩn ngơ vội vàng
đèo truông bóng đổ sông đục ao trong
đền xưa tháp cũ đường hút bụi mờ
vườn chanh bãi bắp giếng cũ đình làng
nhịp nhịp thời gian
thằng Thu Bồn gã Vu Gia
sóng tóc ngang chiều
choàng áo mời người đi uống rượu
rồi đứng giữa đường ngay ngắn tạm biệt em
một cánh hoa mua soi đáy nước Thu Bồn.
Hát xa quê
ễnh ương kêu chiều tạnh dông tháng sáu
sông chạm đáy rồi đồng lúa đắng đòng
hắt hiu đèn đêm vốc nắm sáng đèn đường
nhưng cơn gió quê như giọng ai cười lễnh loãng
thằng bé Thu Bồn
ôm guitar ngồi hát xa quê
tháng sáu ngày dông thương cây bắp trên đồng
cha vá chiêm bao mẹ khâu giấc mơ
dắt trâu bãi bờ nhai bói triền sông
giọng nghé ầm vang trong cơn nấc cụt
gốc rễ nỗi niềm mồn một như in
thằng bé Thu Bồn
mưa nắng dội ngăn sâu
những tháng sáu trôi chạnh nhớ xa xôi
sông khóc đêm vì chẳng ai tắm hai lần
cá không quẫy tuột câu mà giận lẫy bầy đàn
lục bình trôi về đâu hun hút
chiều bờ xa nước cạn đến mênh mông
đứa trẻ Thu Bồn
sẫm màu ký ức
lụt bão từ chân lên đỉnh tóc
tháng sáu tháng sáu
những đứa trẻ Thu Bồn
ngẩng đầu mà hát
không còn muốn nghe phải đợi nước ròng
xa quê tìm về tiếng chim réo rắt
phía những nhịp cầu bên chân núi Chúa
chùm cánh bằng lăng rủ nhau hóng gió
tháng sáu tháng sáu tháng sáu
ai tha hương mà không nhớ tiếng ễnh ương
sông níu thân đêm bật khóc dây đàn
lục bình trổ bông tím phía chiều quê
thằng bé Thu Bồn
ru gió mồ côi
ôm guitar hát.
Vết cứa
bên kia bức tường nhà có tiếng thủy tinh vỡ
tôi bật dậy
nỗi nhớ không tròn
có thể là vết cứa vào hư không
những vết cứa mông muội vào dòng chảy
những mảnh thủy tinh ngổn ngang cắc cớ
hình như những vết
hằn trong ngóc ngách lang thang hư thực
những đường dốc đồi cũ
sương mù lạnh buốt
hay những phố vắng mặt câm
những vết nhăn phận người
sâu trong ký ức giẫm tiếng mưa rơi
cuộc tình muôn màu muôn vẻ
còn giọt nước mắt khô
như suốt đời em không trở lại
những cổ chai đã gãy
khi đã đủ hâm nóng những chiếc lưỡi trên bàn
những khuôn mặt thân quen bè bạn
những lệch lệch xiêu xiêu đổ vỡ
những rong chơi bát ngát vô thường
bên kia bức tường có tiếng thủy tinh
vỡ tôi
trong không gian tối của căn phòng
tôi muốn ru tôi thêm tròn giấc
nhưng vệt sáng thủy tinh
đã cứa vào tôi.
NGUYÊN QUÂN
Một cảm nhận thật mơ hồ khi cầm trên tay tập sách, vừa tản văn vừa tiểu luận của nhà văn Triệu Từ Truyền gởi tặng. Sự mơ hồ từ một cái tựa rất mơ hồ bởi lẽ chữ là một thực thể hữu hiện và chiếc cầu tâm linh chính lại là một ảo ảnh rất dị biệt với thực thể hữu hạn của những con chữ.
TUỆ AN
Đọc “Ảo giác mù”, tập truyện ngắn của Tru Sa (Nxb. Hội Nhà văn, 2016)
TRẦN VIẾT ĐIỀN
Ngô Thì Nhậm viết bài thơ Cảm hoài cách đây 223 năm, nhân đi sứ báo tang Tiên hoàng Quang Trung băng hà và cầu phong An Nam quốc vương cho vua Cảnh Thịnh.
NGUYỄN THỊ THANH LƯU
Đã từ rất lâu rồi, tôi hài lòng với việc đọc thơ trong màu xám của một nỗi tuyệt vọng - nỗi tuyệt vọng không bao giờ phân tách nổi trắng đen giữa đám sương mù xám đặc dường như chỉ có dấu hiệu đậm dần lên trong những lớp lang chữ nghĩa, trong cách ngắt nhịp, buông vần.
MAI VĂN HOAN
Lẽ ra tôi không viết bài này. Thiết nghĩ văn chương thiên biến, vạn hóa, mỗi người hiểu một cách là chuyện bình thường. Tốt nhất là nên tôn trọng cách nghĩ, cách cảm thụ của người khác.
TRIỀU NGUYÊN
1. Đặt vấn đề
Nói lái được sử dụng rộng rãi trong giao tiếp thông thường, và trong văn chương (một lối giao tiếp đặc biệt). Để tiện nắm bắt vấn đề, cũng cần trình bày ở đây hai nội dung, là các hình thức nói lái ở tiếng Việt, và việc sử dụng chúng trong văn chương.
NGUYỄN KHẮC PHÊ
(Đọc tiểu thuyết “Huế ngày ấy” của Lê Khánh Căn, Nxb. Quân đội nhân dân, 2006).
HỒ ĐĂNG THANH NGỌC
(Đọc “Song Tử” của Như Quỳnh de Prelle)
VŨ TRỌNG QUANG
Trần Thiên Thị viết tắt TTT hay đọc là 3 Tê, tôi liên tưởng đến những T thơ ca:
GIÁNG VÂN
Tôi gọi chị là “ Người truyền lửa”.
LGT: Trong khi giở lại tài liệu cũ, tình cờ chuỗi thơ xuân năm Ất Dậu 2005 của Thầy Trần Văn Khê xướng họa với chị Tôn Nữ Hỷ Khương và anh Đỗ Hồng Ngọc rơi vào mắt.
Là một nhà văn có sự nghiệp cầm bút truân chuyên và rực rỡ, sau cuốn tiểu thuyết “Chuyện ngõ nghèo”, có thể coi như cuốn tự truyện của nhà văn, Nguyễn Xuân Khánh chủ trương gác bút. Bởi ông biết mỗi người đều có giới hạn của mình, đến lúc thấy “mòn”, thấy “cùn” thì cũng là lúc nên nghỉ ngơi.
Nhà văn Ngô Minh nhớ ông và bạn văn cứ gặp nhau là đọc thơ và nói chuyện đói khổ, còn nhà thơ Anh Ngọc kể việc bị bao cấp về tư tưởng khiến nhiều người khát khao bày tỏ nỗi lòng riêng.
Tháng 4.1938, Toàn quyền Đông Dương đã “đặt hàng” học giả Nguyễn Văn Huyên thực hiện công trình Văn minh Việt Nam để dùng làm sách giáo khoa cho bộ môn văn hóa VN trong các trường trung học. Một năm sau, công trình hoàn thành nhưng lại không được người Pháp cho phép xuất bản.
TRẦN HOÀI ANH
NGUYỄN VĂN MẠNH
Kỷ niệm 140 năm ngày sinh Cụ Huỳnh Thúc Kháng
MAI VĂN HOAN
Vào một ngày cuối tháng 5/2016 nhà thơ Vĩnh Nguyên mang tặng tôi tác phẩm Truyện kể của người đánh cắp tượng Phật Thích Ca Mâu Ni vừa mới “xuất xưởng”.
Trong đời sống học thuật, nhất là khoa học xã hội, có rất nhiều thân danh dành cho số đông, công chúng (quen xem tivi, nghe đài đọc báo) nhưng cũng có những tiếng nói chỉ được biết đến ở phạm vi rất hẹp, thường là của giới chuyên môn sâu. Học giả Đoàn Văn Chúc là một trường hợp như vậy.
Dồn dập trong ba tháng Tám, Chín, Mười vừa qua, tám trong loạt mười cuốn sách của nhà nghiên cứu về Lịch sử Việt Nam thời Tây Sơn Nguyễn Duy Chính liên tiếp ra đời (hai cuốn kia đã ra không lâu trước đó). Cuộc ra sách ồ ạt này cộng thêm việc tác giả về thăm quê hương đã thu hút sự chú ý của bạn đọc và các nhà nghiên cứu ở Việt Nam.
NHƯ MÂY
Chiều 14/8/2016 không gian thơ nhạc bỗng trải rộng vô cùng ở Huế. Hàng trăm độc giả mến mộ thơ Du Tử Lê và bạn bè văn nghệ sĩ từ các tỉnh Kiên Giang, Đắk Lắk, Quảng Nam, Quảng Trị, Đà Nẵng, Hà Nội đã về bên sông Hương cùng hội ngộ với nhà thơ Du Tử Lê.