Giáo sư Đỗ Đức Hiểu đã qua đời (1924-2003)

09:57 11/05/2009
ĐÀO DUY HIỆPGiáo sư, nhà giáo ưu tú Đỗ Đức Hiểu đã không còn nữa.Đã vĩnh biệt chúng ta một nhà sư phạm hiền từ, một nhà khoa học khiêm tốn và có nhiều phát hiện, một con người đầy lòng nhân ái, tin yêu cuộc sống và suốt đời đã sống vì cái đẹp của văn chương, nghệ thuật. Mười bảy giờ bốn mươi nhăm phút ngày 27 tháng 2 năm 2003 đã là thời khắc đó – cái thời khắc đã chia cách hai thế giới từ nay âm dương cách trở giữa giáo sư Đỗ Đức Hiểu với chúng ta. Ông đã để lại sau mình một cuộc đời dài nhiều ý nghĩa.

Chưa bao giờ số phận lại đùa dai cho bằng khi nó đặt lên vai một ông già gày gò, xương xẩu, và mỏng như suốt chiều dài thân thể ông một sức lao động bền bỉ; một khối lượng văn hoá, văn học nhân loại sâu sắc; một tâm hồn thơ trẻ; một nỗi buồn ẩn sâu, nghẹn ngào chứa chất nước mắt mà ít người ngoài biết được; một tiếng nói nhỏ nhẹ bên một giọng văn bay bổng, câu dài, triền miên, trẻ trung và mạnh mẽ... đến thế. Ông kinh điển mà không cũ kĩ; nhàu nát mà vẫn tươi tắn, trẻ trung; nhỏ nhẹ mà lại kiên định chẳng mấy ai bì được... Tất cả những mệnh đề cực đoan và mâu thuẫn của đời ông đều là những ngọn sóng lớn vỗ không mỏi vào một mệnh đề chính: dòng sông văn chương, cái đẹp, tình thương yêu, lòng nhân ái. Ông sẽ còn là một người Thầy lớn của nhiều thế hệ tương lai cũng như ông đã từng là người Thầy của nhiều lớp người gần nửa thế kỉ qua.

Hành trình cuộc đời văn hoá của ông như một dòng sông lớn: tạm biệt giảng đường và Hà Nội khói lửa ngút trời năm 1946, ông khoác ba lô lên vùng chiến khu Việt Bắc, theo những dòng sông Hồng, sông Lô, sông Công... mê mải. Trở về lại Hà Nội, ông đã tham gia những công tác khác nhau của Bộ giáo dục, của khoa Ngữ văn Trường Đại học Tổng hợp ngày ấy... Nhưng hết thảy các công tác đó đều gắn với việc giảng dạy văn chương, dịch thuật, viết sách, viết báo, tạp chí... cặm cụi với các thế hệ học trò trẻ mà ông hằng mong chóng trưởng thành qua sự dìu dắt đào tạo của ông. Không có việc nào khác ngoài hành trình: học, tự học, giảng dạy, dịch và viết sách. Một hành trình lao động vì cái đẹp của ngôn từ. Tâm hồn trẻ trung của ông luôn khao khát cái mới: Ông là một trong rất ít người đầu tiên ở Việt Nam đã đưa vào việc nghiên cứu văn chương một hướng mới, nhiều sáng tạo, đồng thời giới thiệu những hướng tiếp cận của thế giới. Việc làm ấy, ông bắt đầu từ tổ bộ môn qua những buổi sinh hoạt khoa học vào đầu những năm 80 của thế kỉ trước và lũ trẻ chúng tôi đã may mắn được soi sáng bởi ngọn lửa đó. Cảm xúc lớn và khoa học sâu sắc là hai trọng lực làm nên những công trình nghiên cứu văn chương của ông.

Với ông, nghiên cứu cũng là sáng tạo, Sáng tạo lại “mẫu gốc”. Thời gian chạm khắc vào ông, ông chạm khắc vào văn chương nghiên cứu một sáng tạo. Những không gian rộng lớn nơi xứ người Paris và Bắc Kinh, sông Seine và sông Tiền Đường, Nhà thờ Đức Bà và những mái chùa cong cổ kính... đã hun đúc thêm trong ông một tình yêu dai dẳng, bền bỉ hai nền văn hoá Đông-Tây. Gần nửa thế kỉ qua ông là người chèo đò nhẫn nại giăng mắc trên dòng sông có hai bờ văn hoá ấy. Như bao đời dòng sông và lòng người không phải bao giờ cũng hiền hoà, êm ả. Song ông được đồng nghiệp quý nể, được học trò kính trọng, được người đời tìm đến với tư cách là nhà khoa học lớn có uy tín, trách nhiệm. Hàng mấy trăm bài báo, tạp chí, hàng mấy chục đầu sách dịch và viết, đến nay hỏi, ông cũng lắc đầu không nhớ hết.

Ông là người đứng đầu chủ biên bộ Từ điển văn học hai tập đã xuất bản năm 1984, nay đang trên đường tái bản và bổ sung; là chủ biên cùng với các đồng nghiệp của 11 tập Giáo trình lịch sử văn học Pháp suốt từ thời Trung cổ đến tận ngày nay. Sẽ còn rất lâu mới có thể có một bộ sách khác thay thế được chúng. Tập Đổi mới phê bình văn học của ông tái bản mà vẫn không tìm được sách mua. Ông là người luôn mong mỏi “hiện đại hoá” chính mình. Trong lao động, ông đổi mới mình, và người khác đổi mới theo ông. Trong hai tập Từ điển văn học ông đã tham gia viết tới 67 mục từ các loại: các khuynh hướng, các trào lưu, các thuật ngữ, nhà văn, nhà triết học và tác phẩm của họ- Chủ nghĩa hiện sinh, Chủ nghĩa tự nhiên, Tiểu thuyết Mới, Chủ nghĩa hiện thực Mới, baroque, Descartes, Corneille, Racine, Molière, Béranger, Baudelaire, Rimbaud, Verlaine, Proust, Apollinaire... hầu hết các đỉnh của văn học và tư tưởng Pháp qua ba thế kỉ. Đó là chưa kể các nhà văn, các tác phẩm Bungari, Đức, Bỉ, Mỹ mà ông cũng có viết ở đây. Mỗi mục từ là một núi công sức bỏ ra: sưu tầm tài liệu, đọc tác giả, tác phẩm, thời đại, lịch sử, xã hội... Mỗi con chữ của ông viết ra đều là mỗi giọt mồ hôi cần lao, say mê và sáng tạo.

Đọc liên tục các mục từ của ông ta sẽ hình dung được khá rõ tình hình văn học, lịch sử, các nhà văn, các nhà triết học ở những thế kỉ đó. Công trình đó cần phải có một sự lao động bền bỉ, trung thực và một tình yêu lớn lao đối với văn chương, cái đẹp. Cuộc “phiêu lưu” ấy là bất tận, dòng sông văn chương vẫn mải miết trôi xuôi để chứng kiến một người chèo đò mê mải một ngày kia lại ghé sang bờ Đông với “Thế giới thơ Hồ Xuân Hương”; “Những con đường ra đi của Thuý Kiều”; rồi ông “cùng Nguyễn Nhược Pháp trảy hội Chùa Hương”; lắng nghe “Tiếng thu, thơ nhạc của Lưu Trọng Lư”; cùng những Số đỏ, Sống mòn, Phố huyện, Bi kịch Vũ Như Tô... Ông tháo gỡ tỉ mỉ, nâng niu, sắp xếp, chỉnh trang lại “mẫu gốc”, khám phá ra những ý nghĩa mới sâu xa, tiềm ẩn, khiến cổ vật vốn mang giá trị tự thân lại càng đẹp đẽ, ngời sáng. Ông đi tìm nội dung của hình thức. Nếu như trong quá trình văn bản ông thường hay sử dụng những câu dài, triền miên, thôi thúc, hối hả, nhiều chất nhạc, như muôn ngàn ánh sáng màu sắc lung linh... thì về cuối, những câu kết như nốt trầm tắt lặng, lịm đi, như ánh sáng cuối cùng của đô thị đang dần nhoà đi trước ban mai sau một đêm dài trăn trở, để lại sau nó những dư ba không dứt, nó tiếp tục một đời sống mới triền miên trong tâm trí người đọc. Văn chương nghiên cứu Đỗ Đức Hiểu động đậy, âm vang về phía trăn trở, trái ngang. Ông nhìn vẻ đẹp văn chương bằng ánh sáng của tâm linh dịu dàng và đau khổ.

Về lại bờ Đông, ông đã về lại tuổi thơ cắp sách ngày xưa của chính mình với những “Thủa trời đất nổi cơn gió bụi”, “Lâm Truy từ thủa uyên bay”, “Nước non nặng một lời thề”... Sau bao biến thiên của lịch sử, số phận chúng vẫn hằng văng vẳng bên tai mỗi độ thu sang. Những ấm lạnh của đời sống có lẽ chỉ khiến một hợp kim nâu, dẻo dai, bền bỉ của con người văn hoá như ông càng thêm ngân lên những âm thanh trong trẻo đã được chắt lọc qua thời gian. Hằng ngày, hằng giờ, ông vẫn lại qua mải miết trên dòng sông ấy, tránh nơi ồn ào, khái tính, không Lễ, Tết, ẩn cư, đạm bạc, ông tìm đến “nơi vắng vẻ” trong sách vở như suốt đời ông đã từng như thế để tránh “chốn lao xao” danh vị, tiền tài.
Giáo sư, nhà giáo ưu tú Đỗ Đức Hiểu không còn nữa.

Hà Nội, 03/2003
Đ.D.H
(170/04-03)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • TRẦN THỊ TRƯỜNGBước chân vào cái ngõ 45 Phan Bội Châu gặp mùi bánh trứng nướng thơm phức bao trùm, ngỡ ngàng: “Ông Trần Đình Hiến còn là một chủ lò bánh?”. Nhưng: - Không phải đâu. Khu nhà này hầu hết là mấy anh em ruột chúng tôi sinh sống. Lò bánh này của một chú, còn các người khác mỗi người một nghề. Các em tôi đều chịu khó. Vâng, bây giờ ai chẳng lấy chịu khó làm đầu...

  • Chính Bùi Hiển dẫn lời bạn ông nói rằng văn ông đi từ hướng ngoại đến hướng nội, hàm ý chín dần, mỗi ngày mỗi gần hơn với cốt lõi văn chương. Tôi không thấy như vậy.

  • NGÔ MINHSau hai cuộc hành trình vất vả hơn 2600 cây số đi về Đại hội Nhà văn khu vực miền Trung ở Nha Trang giữa tháng 3, rồi Đại hội Nhà Văn Việt Nam VII, bắt đầu từ 22/4 đến 10 giờ rưỡi đêm 27/4 tôi mới về tới nhà mình ở Huế, ngồi trước máy vi tính viết những dòng  buồn vui lẫn lộn.

  • THANH THẢO                           6 năm nay, kể từ cái đêm thơ nhạc kỷ niệm 40 năm đường 559 do nhà thơ Phạm Tiến Duật dẫn chương trình, trong đêm ấy Tế Hanh vì quá xúc động khi nhớ lại chuyến đi qua Trường Sơn của mình đầu năm 1974, ông đã bị xuất huyết não. 6 năm ấy, không thể có một cuộc phỏng vấn hay “gặp gỡ” nào được thực hiện với Tế Hanh, đơn giản vì ông không nói được. Tôi nghĩ, 6 năm nay, Tế Hanh chỉ còn trò chuyện với dòng sông của mình, dòng sông của đời mình, trong im lặng. Vì thế, những cuộc trò chuyện tôi kể sau đây đều thuộc về thời gian trước khi Tế Hanh lâm trọng bệnh.

  • LTS: Kể từ khi xuất hiện với bạn đọc qua bài bút ký đầu tiên có tên là Gọi nắng và chùm thơ Đời chị trên tạp chí Sông Hương lúc tuổi đời mới hai mươi, gần 10 năm qua, Văn Cầm Hải là một “hiện tượng văn học” của nhiều cuộc tranh luận vì phong cách lập ngôn mới lạ của mình. Bước vào mùa xuân mới, đúng vào ngày sinh nhật 20/1/2005 của mình, Văn Cầm Hải đã chính thức trở thành một trong những nhà văn trẻ nhất của Hội Nhà văn Việt Nam. Vốn là người kín tiếng đến mức “lập dị” nhưng nhân dịp xuân vui này, nhà văn Văn Cầm Hải đã “bật mí” nhiều điều, từ A đến Z trong cuộc sống của anh  với Sông Hương.

  • Sáng ngày 24-2-2005 tại trụ sở 26 Lê Lợi - Huế, Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật tỉnh Thừa Thiên Huế đã tổ chức lễ tưởng niệm nhà thơ Huy Cận. Nhiều cơ quan, ban ngành tỉnh, thành phố Huế và anh chị em văn nghệ sĩ đã tới dự. Sông Hương trân trọng giới thiệu “điếu văn” do nhà thơ Võ Quê đọc trong lễ tưởng niệm.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ(Tưởng nhớ nhà thơ Lương An)Năm 1984, sau khi cùng anh chị em văn nghệ đón di hài nhà thơ Vĩnh Mai về Huế, nhà thơ Lương An - người đồng hương, người bạn thơ gần gũi với Vĩnh Mai đã viết bài "Đón anh về lại Huế thơ": Anh về lại Huế hôm nay / Huế đang mưa bỗng tạnh ngày nắng xuân...

  • HỒ SĨ HIỆPBa Kim, tên thật là Lý Nghiêu Đường, tự Thị Cam, sinh năm 1904, người Thành Đô, tỉnh Tứ Xuyên. Ông viết văn rất sớm, nổi tiếng trên văn đàn từ thời "ngũ tứ vận động" (1919) và hoạt động văn học sôi nổi từ những năm 30, 40 của thế kỷ trước, tên tuổi ngang hàng với các nhà văn Mao Thuẫn, Tào Ngu và Lão Xá.

  • TRUNG SƠN(Nhân kỷ niệm 10 năm ngày mất nhà thơ Phùng Quán)I. Hơn mười năm trước - mùa hè 1992, một cuộc “khai quật” ở Huế đã làm chấn động dư luận. Trong lúc đào hố móng xây dựng một căn nhà tại trụ sở Uỷ ban Khoa học Kỹ thuật Thừa Thiên Huế, người ta đã phát hiện một ngôi mộ tập thể gồm 17 bộ hài cốt, một số vũ khí, đạn và 3 kỷ vật còn ghi rõ tên hiệu, đơn vị Vệ quốc đoàn hồi năm 1946.

  • XUÂN TÙNG          Chòi trống im lìm, khách ngẩn ngơ          Bình khô, rượu cạn, điếu chăng tơ          Bao giờ điếu lại reo êm ái          Nhà rộn tiếng cười, ấm giọng thơ...

  • TRẦN THỊ LINH CHIXuất thân gia đình quan lại, học giỏi nhưng lại không chịu theo đuổi đến nơi đến chốn để khoa bảng đề tên, tiến bước công danh hầu nối nghiệp nhà, cha tôi bỏ dở chương trình tú tài sau khi đậu thành chung, làm một công chức kiếm sống qua ngày, dành hết cuộc đời cho văn học. Năng khiếu phê bình của ông đã biểu hiện ngay từ thời còn đi học.

  • PHAN TRUNG THÀNHTháng giêng năm 2003, Hội Nhà văn thành phố Hồ Chí Minh tổ chức đêm thơ Nguyên Tiêu lần thứ I, theo sáng kiến thành lập “Ngày thơ Việt Nam” của Hội Nhà văn Việt Nam.

  • BẢO CƯỜNGLTS: Trên 40 năm ngâm thơ và đệm sáo cho thơ từ ra Bắc, từ trong nước ra nước ngoài, Bảo Cường hiện là một nghệ sỹ lão luyện trong nghề. Bài viết dưới đây, như chính tác giả nói: “Với lòng thiết tha mong mỏi bộ môn ngâm thơ và đệm sáo cho thơ ngày một phát triển, để mọi người và nhất là giới trẻ yêu thơ có cơ hội tìm hiểu đào sâu về hai bộ môn này.”

  • TRẦN NINH HỒLTS: Trần Ninh Hồ tên thật là Trần Hữu Hỷ. Lính Đông Bộ 1971 - 1976, 1977 - Trưởng ban Văn thơ báo Văn Nghệ. Nguyên chủ nhiệm Bảo tàng Văn học Việt …Bình quân cứ độ dăm năm, nhà thơ Trần Ninh Hồ lại có một "đợt" xuất bản thơ. Anh là cây bút sung sức trong suốt mấy thập niên vừa qua của nền thơ hiện đại Việt Nam, từ cuộc chiến tranh chống Mỹ cho suốt đến những ngày hôm nay...Nhà văn Võ Thị Xuân Hà đã có cuộc trao đổi với nhà thơ Trần Ninh Hồ trong một cách nhìn riêng biệt.

  • INRASARACác hội thảo bàn về nâng cao tính chuyên nghiệp trong sáng tạo văn học đã lôi kéo không ít nhà văn tham gia bàn cãi sôi nổi. Là tín hiệu đáng mừng: văn học Việt đang tự ý thức, tự phản tỉnh (self consciousness).

  • TRẦN ĐÌNH SỬThực tế nghèo nàn về thành tựu khoa học xã hội và nhân văn của chúng ta có thể tìm thấy nguyên nhân trong lối tư duy độc tôn một thời ở lĩnh vực học thuật. Cội nguồn sâu xa của lối tư duy ấy đang nằm trong di chứng của thời kì chiến tranh kéo dài ba mươi năm và cuộc đấu tranh ý thức hệ tàn khốc.

  • NGUYỄN THANH MỪNGKhái niệm nhà văn làm báo chắc không phải là chuyện lạ, nhất là trong thời đại bùng nổ thông tin hiện nay. Cánh cửa mở ra cho nhà văn tung hoành trên “sân cỏ” báo chí không đơn thuần là chuyện “cơm áo không đùa...” mà vì nơi đây, nhà văn thể hiện mình ở nhiều góc độ khác nhau, hiểu từ hai phía, nhu cầu biểu lộ tâm trạng của họ và nhu cầu của đời sống đất nước và nhân dân đòi hỏi ở họ.

  • TRƯỜNG NHÂNLTS: Cũng như cuộc đời, văn nghệ có biết bao buồn vui. Nhà văn cũng là người, cho nên có lúc cũng dở khóc dở cười bởi những chuyện ngoài văn chương. “Vạch túi cho người xem... bia” là câu chuyện hậu kì để bạn đọc chia sẻ với chuyện bếp núc làng văn.

  • NGUYÊN ANMột nhà văn đồng hương cao niên hỏi tôi:- Sao bây giờ ta mới quen nhau nhỉ?Tôi chưa kịp trả lời, ông đã nói tiếp:- Thôi, từ nay nhé!

  • THANH THẢOLTS: Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã về Huế. Có thể nói đấy là một sự kiện - một sự kiện trang nghiêm lặng lẽ.Là người có căn lành, cuộc trở về của ông dường như mãn vẹn. Ông đã trở về với nơi xuất phát, trở về với “ngôi nhà có ngọn lửa ấm”, trở về với tư cách một công dân thi sĩ.Sông Hương có nhã ý “cập nhật” ông từ đầu nhưng qua dò ướm, biết ông chưa muốn, Sông Hương đành để các báo bạn “post” trước.Mặc dầu “truy cập” sau nhưng Sông Hương với ông, với người Tổng Biên tập đầu tiên - Tổng Biên tập sáng lập hẳn còn nhiều duyên nợ, dài dài...