Mùa thu năm 1839, khoảng một năm trước khi cưới Robert Schumann, Clara Wieck thổ lộ trong nhật ký: “Những tác phẩm viết cho piano không thể hiện được trí tưởng tượng và khát vọng lớn lao của anh ấy… Ước nguyện lớn nhất của mình là được thấy anh ấy sáng tác cho dàn nhạc… Cầu mong cho mình có thể đưa anh ấy tới đó!”
Và cô đã làm được điều đó.
Nhà soạn nhạc Robert Schumann và vợ ông, Clara Schumann
Mùa xuân của âm nhạc, mùa xuân của cuộc đời
Bản giao hưởng Mùa xuân được Schumann viết vào giữa mùa đông năm 1841, sau khi ông và Clara Wieck vượt qua sự ngăn cản của cha Clara nhằm cho con gái đừng “phí hoài cuộc đời vì một tay soạn nhạc nghèo” tổ chức lễ cưới. Vì vậy, những ca khúc, bài thơ, những trang nhật ký và những bức thư của ông trong giai đoạn này đều rạng rỡ niềm vui.
Bản giao hưởng này là hành trình đi từ cái lạnh giá và u ám của mùa đông tới ánh sáng và sự hứa hẹn của mùa xuân. Schumann lấy cảm hứng cho bản giao hưởng từ bài thơ Im Tale blüht der Frühling auf (Trong thung lũng, mùa xuân bừng trỗi dậy) của Adolph Böttger, nói về tâm trạng của người đang yêu khi so sánh nỗi sầu khổ của mình với niềm hân hoan của thế giới bên ngoài khi mùa xuân gõ cửa.
Thách thức lớn
Thời điểm này, Beethoven đã qua đời được 14 năm nhưng vẫn phủ một cái bóng dài lên giới soạn nhạc, bản thân Schumann cũng chỉ viết cho piano. Mặt khác, trong vai trò nhà phê bình, ông cũng từng mỉa mai về những nỗ lực bất thành của một vài đồng nghiệp nhằm thoát khỏi tầm ảnh hưởng của Beethoven.
Thực ra, Schumann đã từng thử sức với thể loại giao hưởng vào năm 1932 và đã bỏ cuộc giữa chừng. Nhưng lần này, trong trạng thái hân hoan, cùng với quyết tâm khẳng định vị thế của mình ở thể loại giao hưởng, ông đã dành toàn tâm toàn ý cho bản giao hưởng. Quá trình phác thảo tác phẩm chỉ diễn ra gói gọn trong bốn ngày; những bước tiến đáng ngạc nhiên này được ông ghi lại trong cuốn nhật ký viết chung với Clara:
Ngày 23 tháng 1: Bắt đầu bản giao hưởng Mùa xuân.
Ngày 24 tháng 1: Hoàn thiện chương Adagio và Scherzo của bản giao hưởng.
Ngày 25 tháng 1: Lửa giao hưởng bừng cháy – những đêm không ngủ – đang hoàn thiện chương cuối.
Ngày 26 tháng 1: 26: Hoan hô! Bản giao hưởng hoàn tất!
Schumann dành mấy tuần sau hoàn thiện tác phẩm và kết thúc công việc vào 20 tháng hai.
Trong lá thư gửi Wolfgang Robert Griepenkerl, một người bạn là nhà phê bình âm nhạc uy tín, Schumann nói rằng bản giao hưởng Mùa xuân được “ra đời trong một thời khắc dữ dội”. Trong lá thư khác gửi nhà soạn nhạc kiêm nhạc trưởng Louis Spohr, ông nêu rõ: “Tôi viết bản giao hưởng này trong trạng thái vội vã của mùa xuân, nó cuốn con người đi, bất kể người đó tuổi đã cao, và cứ mỗi năm nó lại mang đến một sinh khí mới.”
Khi trao đổi qua thư với nhạc trưởng Wilhelm Tauber, Schumann viết: “Ông có thể thổi một chút mong mỏi khát khao mùa xuân vào dàn nhạc khi họ chơi bản này được không? Đó là điều mà tôi nghĩ đến nhiều nhất khi sáng tác vào tháng một năm 1841. Tôi muốn tiếng kèn trumpet đầu tiên vang lên phải có âm hưởng như tiếng gọi từ trên cao, như lời hiệu triệu con người thức tỉnh. Thêm nữa, trong phần mở đầu, tôi muốn âm nhạc phải cho thấy rằng thế giới đang nhuốm dần màu xanh, có lẽ là với một chú bướm bay lượn, rồi sau đó, ở phần Allegro, âm nhạc phải thể hiện được mọi thứ cho thấy rằng mùa xuân đang hồi sinh.” Nhưng điều ngạc nhiên hơn cả là khi ông viết thêm rằng: “Tuy nhiên, những ý tưởng này chỉ đến sau khi tôi đã hoàn thiện tác phẩm.”
Hành trình của mùa Xuân
Ban đầu, Schumann đã đặt tiêu đề cho từng phần trong bản nhạc. Sau đó, ông đã gạch bỏ trước khi công diễn, song thiết nghĩ chúng ta vẫn nên nhớ đến chúng, bởi đây là manh mối cho thấy những gì diễn ra trong tâm tư của nhà soạn nhạc, qua đó giúp chúng ta hiểu rõ hơn nội dung và tinh thần bao quát từng chương.
Chương đầu tiên được ông đặt tên là Mùa xuân bừng dậy, và tiếng kèn trumpet mở đầu tương ứng với câu thơ của Adolph Böttger, nguồn cảm hứng của Schumann khi sáng tác:
Ồ kia! Hãy quay lại! Quay lại và đi lối khác
Trong thung lũng mùa xuân bừng dậy rồi!
Chương thứ hai có tên ban đầu là Buổi chiều, một khúc nhạc êm dịu và mơ màng đúng theo phong cách của Schumann và ẩn chứa tinh thần mộ đạo. Chương này được chuyển liền sang khúc scherzo với tiết tấu nhanh và mạnh mẽ với tiêu đề Những người bạn vui vẻ. Tương tự như các scherzo khác của Schumann, khúc này cũng gồm hai phần trio tương phản nhau: phần thứ nhất mang không khí huyền bí, còn phần thứ hai lại sôi nổi theo đúng tinh thần của điệu nhảy dân gian Đức Ländler. Và dẫn lối tới chương cuối mang tên Lời từ biệt của mùa xuân là âm thanh của các nhạc cụ dây.
Để từ không khí đầy sống động trong đoạn kết của chương một đến đoạn kết của bản giao hưởng không gây ra cảm giác hụt hẫng, Schumann đã xây dựng đoạn kết bản giảo hưởng bằng một đoạn nhạc dài có tiết tấu nhanh, nhún nhẩy, như lời từ biệt vui vẻ.
Bản giao hưởng mùa Xuân là mốc xuất phát cho những tác phẩm giao hưởng về sau của nhà soạn nhạc. Vào tháng tư và tháng năm, ông viết tác phẩm The Overture, Scherzo, và Finale (một bản giao hưởng không có chương chậm mà Schumann gọi là bản “symphonette”). Ngay sau đó, vào ngày 20 tháng năm, ông hoàn tất bản Fantasy piano cung La thứ (sau được phát triển thành chương đầu bản piano concerto nổi tiếng của Schumann). Mười ngày sau, ông lại tiếp tục viết tác phẩm khác, bản giao hưởng cung Rê thứ (một thập kỷ sau đó, ông viết lại bản này thành tác phẩm mà ngày nay chúng ta gọi là bản giao hưởng số 4). Cuối năm đó, ông còn tập trung vào một bản giao hưởng khác ở cung Đô thứ (nhưng bản này không được hoàn thiện). Vậy là chỉ trong một năm, Schumann đã thiết lập được cho mình một vị trí vững chắc trên cương vị sáng tác giao hưởng. |
Nguồn: Bùi Thu Trang - Tia Sáng
Âm nhạc giao hưởng điện tử đang trở thành “món ăn” tinh thần mới lạ ở Việt Nam. Tiếc là ý tưởng âm nhạc độc đáo này mới chỉ được đón nhận một cách dè dặt ở Huế.
Ngày 4/3, dàn hợp xướng Hợp ca Quê hương của cộng đồng người Việt Nam tại Pháp đã tham gia liên hoan hợp xướng quốc tế Paris và có màn trình diễn xuất sắc, ấn tượng, để lại dấu ấn đậm nét Việt Nam trong lòng bạn bè quốc tế.
Tối 4/3, tại khu vực vườn hoa Tượng đài Lý Thái Tổ, bên hồ Hoàn Kiếm (Hà Nội), một trong năm dàn nhạc giao hưởng lớn của thế giới đã có buổi hòa nhạc, đưa đỉnh cao âm nhạc thế giới đến công chúng Việt Nam.
Bộ VH-TT-DL vừa công bố danh sách tác giả, tác phẩm được Chủ tịch nước quyết định trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh, Giải thưởng Nhà nước về Văn học Nghệ thuật năm 2017.
Nhiều người đã gọi nhà soạn nhạc 11 tuổi Alma Deutsher là Mozart hiện đại khi vở opera Cinderella của cô bé lần đầu công diễn tại Vienna và nhận được sự tán thưởng đặc biệt của khán giả.
Với sáng kiến của những người yêu nhạc cổ điển cách đây 127 năm, ngôi nhà nơi Beethoven sinh ra vẫn còn trụ vững và trở thành bảo tàng về nhà soạn nhạc thiên tài.
Theo các nhà nghiên cứu, hội chứng Tourette gây ra ở Mozart những hành vi khó hiểu nhưng đồng thời đó cũng có thể là lời giải thích hợp lý cho các ý tưởng âm nhạc vô tận của nhạc sĩ thiên tài.
So với các nước trong khu vực Đông Nam Á, nền nghệ thuật âm nhạc Việt Nam có tốc độ phát triển nhanh và đạt được những thành tựu đáng ghi nhận.
Trong khi gần nửa số vở opera của Vivaldi hoàn toàn biệt tăm tích thì "Orlando Furioso" lại tìm được đến hai bản thảo.
Khi Wolfgang mới lẫm chẫm biết đi, cô bé Nannerl bốn tuổi rưỡi đã là thần tượng của em mình. Theo nhà nghiên cứu Maynard Solomon, “lên ba tuổi, Mozart đã hứng thú học nhạc vì trông thấy cha dạy đàn cho chị; cậu bé muốn được như chị."
VĨNH PHÚC
Nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ (1929 - 2001) sinh tại Triệu Phong, Quảng Trị; nhưng cũng như Duy Khánh, Nguyễn Hữu Ba… ông đã có quá trình sinh sống và hoạt động tại Huế.
Nếu như trào lưu Khai sáng thế kỉ 18 khởi nguồn từ một thiểu số tinh hoa rồi chầm chậm lan truyền ảnh hưởng ra khắp xã hội thì trào lưu Lãng mạn phổ biến hơn nhiều từ cội nguồn đến ảnh hưởng.
Joseph Haydn là nhà sáng tạo ra các thể loại cơ bản của âm nhạc. một trong những thành tựu quan trọng nhất của ông là đã phát triển và tạo ra nguyên tắc cấu trúc có ảnh hưởng nhất trong lịch sử âm nhạc, hình thức sonata.
Trong lịch sử âm nhạc, ở thời kỳ Tiền cổ điển và Cổ điển (1720-1820), các nhạc sĩ có xu hướng phát triển nhiều hình thức với cách diễn đạt tự nhiên, phản kháng lại phong cách đối âm thời kỳ Baroque quá cứng nhắc và lý trí, từ đó hình thành một trào lưu mới trong âm nhạc – Rococo.
Gần một thế kỷ sau khi qua đời, tuy ít được công chúng biết đến nhưng Bach lại có tầm ảnh hưởng sâu rộng đến những tượng đài về sau như Mozart, Haydn, Beethoven, Mendelssohn. Ngày nay, âm nhạc của Bach là một phần quan trọng trong lịch sử âm nhạc châu Âu.
Trong thời kỳ Baroque, nước Ý đóng vai trò trung tâm với những phát kiến mới về cả nội dung lẫn hình thức thể hiện của âm nhạc.
Dù không được thính giả ngày nay biết đến rộng rãi như đồng nghiệp của các thời kỳ sau nhưng những nhà soạn nhạc thời kỳ Phục Hưng cũng để lại không ít dấu ấn trong kỹ thuật sáng tác cũng như trong cải tiến nhạc cụ biểu diễn.
KỶ NIỆM 15 NĂM NGÀY MẤT NHẠC SĨ TRỊNH CÔNG SƠN
LÝ TOÀN THẮNG
(Viết tặng VH và BH)
Mùa thu năm 1839, khoảng một năm trước khi cưới Robert Schumann, Clara Wieck thổ lộ trong nhật ký: “Những tác phẩm viết cho piano không thể hiện được trí tưởng tượng và khát vọng lớn lao của anh ấy… Ước nguyện lớn nhất của mình là được thấy anh ấy sáng tác cho dàn nhạc… Cầu mong cho mình có thể đưa anh ấy tới đó!”
Và cô đã làm được điều đó.
Các nhà nghiên cứu vừa phát hiện ra rằng Luwig van Beethoven đã soạn nhạc theo nhịp đập trái tim mình. Theo họ, những nhịp điệu ấn tượng trong một số tác phẩm nổi tiếng nhất của nhà soạn nhạc có thể xuất phát từ chứng loạn nhịp tim của ông.