NGUYỄN BÙI VỢI
Nhà thơ Nguyễn Bùi Vợi - Ảnh: internet
Nhà thơ Thanh Tịnh nhớ chuyện cũ
Lần ấy, mươi hôm sau cuộc trao giải thưởng thơ, báo Văn Nghệ họp cộng tác viên thơ. Có các nhà thơ cao niên như Khương Hữu Dụng, Lưu Trọng Lư, Thanh Tịnh, có lớp kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, có nhà thơ dưới 30 tuổi như Trần Đăng Khoa. Nhà thơ Thanh Tịnh ngồi cạnh nhà thơ Lưu Trọng Lư.
Cuộc họp chưa bắt đầu, các nhà thơ nói chuyện phiếm.
Bác Thanh Tịnh bảo:
- Năm 18 tuổi, tôi được giải nhất thơ báo Đông Pháp, giải thưởng chỉ có 8 đồng bạc. 8 đồng bạc lúc ấy mua được mấy cân gạo, anh em?
Chưa ai trả lời thì nhà thơ Lưu Trọng Lư lên tiếng:
- Lúc bấy giờ chỉ có 2 đồng một tạ!
Thanh Tịnh làm ra bộ ngạc nhiên:
- Rứa à? Được những bốn tạ gạo kia à? Cái bài thơ của cậu thanh niên 18 mới tập làm thơ mà được những bốn tạ kia à?
Ông ngoảnh sang nhà thơ Võ Văn Trực hỏi:
- Còn giải nhất thơ của báo Văn Nghệ bây giờ thì được mấy tạ gạo, anh Trực?
- Thưa bác, chỉ được mấy chục cân thôi ạ!
Thanh Tịnh lại làm bộ ngạc nhiên, rồi nhìn nhà thơ Lưu Trọng Lư:
- Ít nhưng còn được nhận, còn tôi được những 4 tạ nhưng có được hột nào đâu, biên tập viên túng bấn quá, "tiêu hộ" mất...
Rồi đột ngột, ông chỉ thẳng vào Lưu Trọng Lư:
- Lư chứ ai!
Nhà thơ Lưu Trọng Lư cười gượng gạo.
Anh em cười ồ.
Tôi hỏi nhà thơ Thanh Tịnh:
- Thưa Bác, chuyện ấy xảy ra năm bác 18, năm nay bác đã 72; 54 năm rồi mà bác vẫn nhớ kỹ thế ạ?
Nhà thơ Thanh Tịnh nháy nháy mắt trêu nhà thơ Lưu Trọng Lư, trả lời:
- Anh bạn trẻ ơi, các cụ bảo: "miếng ngon nhớ lâu, đòn đau nhớ đời" mà!
Tấm lòng của nhà thơ
Thấy có người bảo: Hải Bằng vừa ra điều trị ở viện tai, mũi, họng Bạch Mai, Nguyễn Bùi Vợi đến thăm ngay. Hai người gặp nhau từ những năm sau hòa bình 54, còn từ bấy đến nay chưa gặp lại.
Khi Nguyễn Bùi Vợi chào, Hải Bằng hỏi:
- Mi là thằng Phạm Ngọc Cảnh hí?
- Chỉ cái trán là Phạm Ngọc Cảnh, còn tất cả là Nguyễn Bùi Vợi.
- Ôi trời thằng Vợi, mấy chục năm tau có gặp mi mô!
Cánh tay gầy gò của nhà thơ xứ Huế cứ ôm lấy vai bạn mà lắc. Hải Bằng bảo:
- Đọc thơ nghe chơi. Tau đọc cho mi nghe mười bài sau đó mi đọc cho tau nghe mười bài.
- Chưa đọc thơ vội. Tôi đến thăm xem anh có thiếu gì, tôi lo giúp, nghe nói anh đi vội.
Hải Bằng cười móm mém:
- Tau nhảy ô tô thằng bạn, chỉ mang cái xác không ra đây với một bộ quần áo mặc trên người.
Thế là chiều hôm ấy, anh đã có đủ các thứ lặt vặt cần thiết.
Đêm thứ hai, Nguyễn Bùi Vợi sang, Hải Bằng đọc thơ.
Thấy bạn nghe đến chục bài mà mặt vẫn lạnh băng, Hải bằng giục:
- Mi thấy thơ tau ra răng? Mấy bài tứ tuyệt được đấy hí?
Nguyễn Bùi Vợi dè dặt:
- Tôi không thích, hình như anh viết những điều ngoài anh?
Mặt Hải Bằng không vui.
Năm hôm sau, một đêm Hải bằng mặc áo quần bệnh nhân gõ cửa nhà Nguyễn Bùi Vợi. Uống xong chén nước, anh nói luôn:
- Tau đến đọc cho mi nghe mấy bài mới viết khá lắm!
Mặt chủ nhà thoáng vẻ hồ nghi. Nghe liền một chặp độ chục bài, anh cứ ngồi như mọc rễ.
- Răng, không được bài mô? Cả đời mần thơ của tau không được bài mô? Cả bài "Cồn cỏ” được tặng giải của báo Văn Nghệ cũng vứt. Rứa thì chỉ có thơ mi là hay thôi!
Hải Bằng đùng đùng ra về. Chủ tiễn khách đến chân cầu thang. Cả hai đều không ai giơ tay ra.
Hải Bằng về rồi, bà vợ chủ nhà ở buồng bên bước ra, gay gắt:
- Không ai thô bạo như anh. Anh ấy mặc áo bệnh nhân đến nhà mình đọc thơ. Dù thơ không hay, anh cũng cứ nên khen chiều lòng anh ấy mới phải. Nhà thơ đã là trẻ con, bệnh nhân lại là đứa trẻ con nữa… Nếu đêm nay bị xốc, anh ấy có làm sao thì anh sẽ ân hận suốt đời.
Nguyễn Bùi Vợi lặng đi mấy giây, giọng khản đục:
- Em nói có phần đúng. Nhưng anh không thể dối lòng mình. Rời lầu son gác tía ở cố đô Huế, anh ấy đi kháng chiến mấy chục năm rồi, những năm 60 lại mang ba lô về Quảng Bình; nhiều lần bị thành kiến, bị hiểu sai bị ghét bỏ. Anh ấy khổ như thế mà thơ lại cứ phơi phới như một người được cuộc đời ưu đãi. Trong đời sống anh ấy khổ gấp ba lần mình, còn nghe thơ xong mình lại thấy khổ gấp ba mươi lần vì đã không đưa được những khổ đau đó vào trong trang viết.
Vợ ngắt lời:
- Những điều nghĩ ngợi ấy, lúc khác anh ấy khỏe mạnh rồi hẵng nói có được không, còn bây giờ anh ấy đang bệnh nhân thì...
- Cái chết của anh là sự bộc trực nhưng cái sống của anh cũng chính ở sự bộc trực!
Mấy tháng sau, đại hội Văn Nghệ Bình Trị Thiên họp. Phòng văn học giới thiệu một chương trình thơ Bình Trị Thiên trên sóng. Vùng đất ấy nhiều nhà thơ quá mà chương trình chỉ chứa được tối đa là 8 bài. Các nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm, Xuân Hoàng, Lâm Thị Mỹ Dạ... chỉ được nhắc tên bài và tên người ngâm. Đến Hải Bằng, Nguyễn Bùi Vợi giới thiệu 6 dòng gần như tóm tắt được mọi chìm nổi của tác giả. Trưởng ban biên tập hỏi:
- Sao mấy nhà thơ có tên tuổi thì ông giới thiệu sơ lược thế, mà ông này thì lại kỹ thế?
Nguyễn Bùi Vợi thẳng thắn:
- Anh ạ, ở nước mình, người đã thừa vinh quang rồi, người ta lại đua nhau đắp vòng nguyệt quế lên đầu, người đã thừa tiền rồi chỉ đến hội nghị ọ ẹ vài câu không đâu vào đâu, người ta cũng bỏ phong bì dày cộp. Còn những người thất thế, chả làm gì ai, đi qua nó cũng đá đít cho vài cái, cái thằng đã nghèo có vài chục nhuận bút còm cũng bị quịt. Anh Hải Bằng là người thiệt thòi nhiều nên tôi muốn cho anh ấy "truy lĩnh".
Lần ấy, nhà thơ Trần Phương Trà về Huế họp, khoe với Hải Bằng chương trình thơ Bình Trị Thiên. Hải Bằng bảo:
- Chắc chắn là không có bài của tau. Thằng Vợi chê thơ tau lắm mà.
- Tôi xem giới thiệu rồi, có bài của anh.
Hải Bằng nổi đóa:
- Được tối ni, mi về nhà tau, tau nấu một nồi cháo chân khỉ, đón nghe coi. Nếu không có thơ tau, tau tát mi liền.
Trần Phương Trà đâm lo (biết đâu chương trình có thay đổi) nhưng cũng liều.
Đêm ấy nghe được nửa buổi "Tiếng thơ" thì nghe phát thanh viên giới thiệu thơ Hải Bằng, Hải Bằng ôm lấy Trần Phương Trà "hức hức":
- Rứa là thằng Vợi nó thương tau thiệt. Hiểu sai nó, tội quá.
Lần ấy, Hải Bằng (nhà làm rễ cây nổi tiếng) gửi Trần Phương Trà mang ra cho Nguyễn Bùi Vợi một con ngựa làm bằng rễ cây có cả cái đế rất nặng. Ở đế có bài thơ tứ tuyệt:
Ngựa đã lên cương chờ chi nữa
Vó dồn giục giã gõ theo trăng
Chở thơ đi mãi vào muôn thuở
Để lại lòng nhau một tiếng đàn.
N.B.V
(TCSH45/03-1991)
BỬU Ý
Hàn Mặc Tử (Nguyễn Trọng Trí) từng sống mấy năm ở Huế khi còn rất trẻ: từ 1928 đến 1930. Đó là hai năm học cuối cùng cấp tiểu học ở nội trú tại trường Pellerin (còn gọi là trường Bình Linh, thành lập năm 1904, do các sư huynh dòng La San điều hành), trường ở rất gần nhà ga tàu lửa Huế. Thời gian này, cậu học trò 17, 18 tuổi chăm lo học hành, ở trong trường, sinh hoạt trong tầm kiểm soát nghiêm ngặt của các sư huynh.
LÊ QUANG KẾT
Ký
Giai điệu và lời hát đưa tôi về ngày tháng cũ - dấu chân một thuở “phượng hồng”: “Đường về Thành nội chiều sương mây bay/ Em đến quê anh đã bao ngày/ Đường về Thành nội chiều sương nắng mới ơ ơ ơ/ Hoa nở hương nồng bay khắp trời/ Em đi vô Thành nội nghe rộn lòng yêu thương/ Anh qua bao cánh rừng núi đồi về sông Hương/ Về quê mình lòng mừng vui không nói nên lời…” (Nguyễn Phước Quỳnh Đệ).
VŨ THU TRANG
Đến nay, có thể nói trong các thi sĩ tiền chiến, tác giả “Lỡ bước sang ngang” là nhà thơ sải bước chân rong ruổi khắp chân trời góc bể nhất, mang tâm trạng u hoài đa cảm của kẻ lưu lạc.
TRẦN PHƯƠNG TRÀ
Đầu năm 1942, cuốn “Thi nhân Việt Nam 1932-1941” của Hoài Thanh - Hoài Chân ra đời đánh dấu một sự kiện đặc biệt của phong trào Thơ mới. Đến nay, cuốn sách xuất bản đúng 70 năm. Cũng trong thời gian này, ngày 4.2-2012, tại Hà Nội, Xuân Tâm nhà thơ cuối cùng trong “Thi nhân Việt Nam” đã từ giã cõi đời ở tuổi 97.
HUYỀN TÔN NỮ HUỆ - TÂM
Đoản văn
Về Huế, tôi và cô bạn ngày xưa sau ba tám năm gặp lại, rủ nhau ăn những món đặc sản Huế. Lần này, y như những bợm nhậu, hai đứa quyết không no nê thì không về!
LƯƠNG AN - NGUYỄN TRỌNG HUẤN - LÊ ĐÌNH THỤY - HUỲNH HỮU TUỆ
BÙI KIM CHI
Nghe tin Đồng Khánh tổ chức kỷ niệm 95 năm ngày thành lập trường, tôi bồi hồi xúc động đến rơi nước mắt... Con đường Lê Lợi - con đường áo lụa, con đường tình của tuổi học trò đang vờn quanh tôi.
KIM THOA
Sao anh không về chơi Thôn Vỹ
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
(Hàn Mạc Tử)
NGUYỄN VĂN UÔNG
Hôm nay có một người du khách
Ở Ngự Viên mà nhớ Ngự Viên
(Xóm Ngự Viên - Nguyễn Bính)
HOÀNG THỊ NHƯ HUY
Tôi biết Vân Cù từ tấm bé qua bóng hình người đàn bà gầy đen, gánh đôi quang gánh trĩu nặng trên vai, rảo khắp các xóm nhỏ ở Thành Nội, với giọng rao kéo dài: “Bún…bún…ún!” mà mẹ đã bao lần gọi mua những con bún trắng dẻo mềm.
LÊ QUANG KẾT
Tùy bút
Hình như văn chương viết về quê hương bao giờ cũng nặng lòng và giàu cảm xúc - dù rằng người viết chưa hẳn là tác giả ưu tú.
TỪ SƠN… Huế đã nuôi trọn thời ấu thơ và một phần tuổi niên thiếu của tôi. Từ nơi đây , cách mạng đã đưa tôi đi khắp mọi miền của đất nước. Hà Nội, chiến khu Việt Bắc, dọc Trường Sơn rồi chiến trường Nam Bộ. Năm tháng qua đi.. Huế bao giờ cũng là bình minh, là kỷ niệm trong sáng của đời tôi.
LÊ QUANG KẾT
Quê tôi có con sông nhỏ hiền hòa nằm phía bắc thành phố - sông Bồ. Người sông Bồ lâu nay tự nhủ lòng điều giản dị: Bồ giang chỉ là phụ lưu của Hương giang - dòng sông lớn của tao nhân mặc khách và thi ca nhạc họa; hình như thế làm sông Bồ dường như càng bé và dung dị hơn bên cạnh dòng Hương huyền thoại ngạt ngào trong tâm tưởng của bao người.
HUY PHƯƠNG
Nỗi niềm chi rứa Huế ơi
Mà mưa trắng đất, trắng trời Thừa Thiên
(Tố Hữu)
PHAN THUẬN AN
Huế là thành phố của những dòng sông. Trong phạm vi của thành phố thơ mộng này, đi đến bất cứ đâu, đứng ở bất kỳ chỗ nào, người ta cũng thấy sông, thấy nước. Nước là huyết mạch của cuộc sống con người. Sông là cội nguồn của sự phát triển văn hoá. Với sông với nước của mình, Huế đã phát triển theo nguyên tắc địa lý thông thường như bao thành phố xưa nay trên thế giới.
MAI KIM NGỌC
Tôi về thăm Huế sau hơn ba thập niên xa cách.Thật vậy, tôi xa Huế không những từ 75, mà từ còn trước nữa. Tốt nghiệp trung học, tôi vào Sài Gòn học tiếp đại học và không trở về, cho đến năm nay.
HOÀNG HUẾ
…Trong lòng chúng tôi, Huế muôn đời vẫn vĩnh viễn đẹp, vĩnh viễn thơ. Hơn nữa, Huế còn là mảnh đất của tổ tiên, mảnh đất của trái tim chúng tôi…
QUẾ HƯƠNG
Năm tháng trước, về thăm Huế sau cơn đại hồng thủy, Huế ngập trong bùn và mùi xú uế. Lũ đã rút. Còn lại... dòng-sông-nước-mắt! Người ta tổng kết những thiệt hại hữu hình ước tính phải mươi năm sau bộ mặt kinh tế Thừa Thiên - Huế mới trở lại như ngày trước lũ. Còn nỗi đau vô hình... mãi mãi trĩu nặng trái tim Huế đa cảm.
THU TRANG
Độ hai ba năm thôi, tôi không ghé về Huế, đầu năm 1999 này mới có dịp trở lại, thật tôi đã có cảm tưởng là có khá nhiều đổi mới.
TUỆ GIẢI NGUYỄN MẠNH QUÝ
Có lẽ bởi một nỗi nhớ về Huế, nhớ về cội nguồn - nơi mình đã được sinh ra và được nuôi dưỡng trong những tháng năm dài khốn khó của đất nước, lại được nuôi dưỡng trong điều kiện thiên nhiên vô cùng khắc nghiệt. Khi đã mưa thì mưa cho đến thúi trời thúi đất: “Nỗi niềm chi rứa Huế ơi/ Mà mưa xối xả trắng trời Trị Thiên…” (Tố Hữu). Và khi đã nắng thì nắng cho nẻ đầu, nẻ óc, nắng cho đến khi gió Lào nổi lên thổi cháy khô trời thì mới thôi.