TÔ NHUẬN VỸ
Nhận tập sách do anh Lê Đình Bân tặng, một kết quả từ tấm lòng, công sức, tài chính.. của anh và bạn bè đồng chí "thế hệ khởi nghĩa” của anh, tôi hết sức cảm kích nhưng không biết đến bao giờ mới... đọc xong nó.
Bởi một lẽ giản dị: sách vở, báo chí bây giờ đủ loại, mua có bạn bè tặng có, luôn đầy ứ trong cặp, trên bàn làm việc và giá sách. Phải đọc nhiều thứ trong một ngày, nên có cuốn sách quý mà phải đọc hàng tháng trời. Nhưng đọc cuốn này, tôi không dứt đoạn được, mà đọc liền một mạch. Không phải vì sự hấp dẫn của văn chương chữ nghĩa, càng không phải vì sự lạ và giật gân. Sự việc, con người của một thời khắc khác, mà sao liên hồi khiến tôi nhớ lại không khí náo nức, sục sôi của thế hệ thanh niên chúng tôi lúc giặc Mỹ ào ạt kéo vào tàn phá đất nước Việt Nam: tất cả xếp bút nghiên xuống đường tranh đấu, xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước, hàng ngàn thanh niên viết thư máu xin trở về quê hương miền Nam chiến đấu... Chính tấm lòng yêu nước nồng nàn, khát vọng độc lập tự do cho Tổ quốc nhân dân khiến các anh chị đi tìm đồng tâm đồng chí, đi tìm Việt Minh và đã gặp nhau, gặp tổ chức Đảng, dần thành một khối, mỗi lúc một đông đảo và lớn mạnh. Thật xúc động khi đọc đến đoạn các anh Ngô Điền, Tôn Thất Hoàng, Nguyễn Thế Lương (Cao Pha), Nguyễn Thế Lâm... đạp xe từ Hà Nội về Huế đưa thêm không khí sục sôi cách mạng của thủ đô về hợp sức, tiếp sức với Huế. Chính với tấm lòng và khát vọng đó mà khi giặc Pháp trở lại đánh chiếm Nam Bộ, những "Nữ nhi khuê các" như các chị Ngọc Toản, Lệ Dư, Lệ Tùng, Ngọc Trai... Chỉ với hai bộ áo quần, một cái túi vải nguyên là cái vỏ đựng mặt nạ cũ, với cái thẻ tùy thân, trong người không có một đồng xu nhỏ, chúng tôi nhảy tàu vào đến ga Quảng Ngãi đi tìm phân đội của anh Long, trong đoàn quân Nam tiến của Huế (trang 62). Chính có tấm lòng khát khao độc lập tự do đó mà những thanh niên trí thức giảng viên và học viên Trường Thanh niên tiền tuyến do ngụy quyền thân Nhật lập ra với ý đồ đào tạo đội ngũ sĩ quan nòng cốt cho chế độ đã nhanh chóng đứng về phía cách mạng, toàn trường được "Việt Minh hóa", đặt dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Ủy ban cách mạng Thừa Thiên Huế. "Trong khi triều đình có một lực lượng lớn quân đội (gồm Bảo an binh, lính khố xanh khố vàng) và một lực lượng khá lớn quân đội Nhật (4500 tên) nhưng cuộc khởi nghĩa vẫn diễn ra đúng kế hoạch, rất nhanh gọn và không hề đổ máu... Cùng với khí thế cách mạng của ta, điều làm cho họ suy sụp hoàn toàn là khi nhìn thấy dẫn đầu các mũi đi cướp chính quyền lại chính là những "con cưng", "sĩ quan" tương lai của chính phủ!" (trang 187)
Chính đội ngũ giảng viên và học viên này đã đóng một vai trò nòng cốt và đặc biệt quan trọng trong việc thành lập 25 trung đội Giải Phóng Quân đầu tiên ở Huế, trong các sự kiện bắt tốp biệt kích Pháp nhảy dù xuống Hiền Sỹ, tổ chức các đơn vị Nam tiến ủng hộ Nam Bộ kháng chiến, lấy súng đạn từ kho của Nhật, giải phóng nhà lao, bảo vệ cuộc mít tinh khổng lồ của quần chúng ngày 23 - 8, đưa cố vấn Vĩnh Thụy ra Hà Nội, thành lập đơn vị công binh và "Ban công binh Thừa thiên Huế là cơ quan chỉ đạo công binh đầu tiên của quân đội ta" (trang 113)... Đặc biệt trong chiến đấu chi viện cho các bạn Lào, anh Lê Thiệu Huy đã hy sinh thân mình để bảo vệ Hoàng thân XuFanuvong ở mặt trận Thà Khẹt ngày 21-3-46, anh Huy hy sinh "Không những gia quyến mất một người con yêu dấu mà nước Việt Nam và nhân dân Lào mất 1 chiến sĩ đầy tinh thần hy sinh vì công lý" (Trích thư của Hoàng thân XuFanuvông gửi cụ Lê Thước, thân sinh liệt sĩ Lê Thiệu Huy - trang 191). Riêng sự kiện hạ cờ quẻ li, treo cờ đỏ sao vàng, do hai đồng chí Thế Lương (Cao Pha) và Đặng Văn Việt tiến hành, tôi muốn trích ra đây để nhiều người cùng biết. Lá cờ đỏ sao vàng lịch sử ấy, "to rộng bằng cả hai gian nhà, rải ra trông như một tấm thảm lớn"... "Bảo vệ kỳ đài là một tiểu đội lính dõng làm thêm nhiệm vụ đốt pháo lệnh... Cứ đến 6 giờ, 12 giờ, 18 giờ mỗi lần ba phát, làm chấn động cả bầu trời yên tĩnh của cố đô... Anh Thế Lương và tôi (Đặng Văn Việt) nai nịt gọn gàng, trong trang phục chỉnh tề: Calô hai sừng đội đầu, bêrê caki kiểu kỵ mã vàng óng, đôi ghệt cao cổ của chàng ngự lâm quân. Tất cả binh hỏa lực để xung trận: là "hai đứa tui" là khẩu barillet to bằng bàn tay và 6 viên đạn út. Cuộn tròn lá cờ, gác lên 2 chiếc xe đạp, chúng tôi đẩy, thẳng tiến hướng kỳ đài. Tôi lên gặp chỉ huy, truyền lệnh: "Hạ cờ cũ, treo cờ mới!”. Có lẽ uy thế của Việt Minh quá mạnh, nên không gặp một phản ứng nhỏ nào. Vì đằng sau chúng tôi là hàng ngàn vạn nhân dân Thừa Thiên Huế bừng bừng khí thế như một ngọn sóng thần đang chuẩn bị sẵn sàng xông lên lật đổ chế độ quân chủ, lập nên nền cộng hòa Việt Nam. Theo lệnh tôi: 5 lính pháo đùng buộc cờ vào giây, qua ròng rọc, đưa cờ đỏ sao vàng từ từ lên cao và cờ nhà vua từ từ hạ xuống. Anh Cao Pha và 5 lính pháo đùng, xếp hàng ngang, theo lễ nghi quân sự "đưa tay, chào". Hình thức thật đơn sơ, thời gian ngắn gọn. Tôi còn nhớ hôm ấy, giờ Mùi (khoảng 14 giờ) ngày 14 tháng 7 Ất Dậu (tức 21 - 8 - 1945) trước 2 hôm giành chính quyền ở Huế (23 - 8 - 1945). Mấy phút sau, một máy bay hai thân cánh bạc, quốc kỳ USA, lượn 3 vòng quanh cột cờ, nghiêng cánh như vẫy chào, rồi biến mất phía chân trời.
... Trong buổi lễ Bảo Đại thoái vị long trọng ngày 30 - 8 - 1945, có mục nghi thức mới: hạ cờ quẻ li lần thứ hai và treo cờ đỏ sao vàng chính thức lên cột cờ của cố đô Huế. Viên lãnh binh khố vàng đến cạnh tôi, biết anh Cao Pha và tôi đã treo cờ hôm trước, ông ta nói: "Hôm hạ cờ nhà vua, cả đại đội khố vàng chúng tôi nằm rạp, dọc thành cổng Ngọ Môn. Hơn 100 tay súng chĩa về các anh, xin ý kiến Hoàng đế. Ngài bảo: "Chớ! Chớ! Việt Minh đấy! Chúng mi nổ súng thì tao chết trước đấy!" May quá, lính chỉ nằm im cho đến khi các anh đi khuất. Hôm ấy mà bóp cò, thì nay tôi toi mạng rồi, thiệt phúc lớn nhà tôi!" (trang 37 - 40).
Cảm ơn Nhà xuất bản Lao Động, cảm ơn 22 tác giả của tập sách đã đưa đến cho người đọc những trang hồi ức tâm huyết, chân thực, nhiều ý nghĩa trong dịp kỷ niệm 50 năm Ngày thành lập Quân đội Nhân dân Việt Nam anh hùng.
T.N.V
(TCSH70/12-1994)
PHAN MINH NGỌC“Bài thơ về biển khơi” (*) là tập sáng tác đầu tay của cây bút nữ Trần Thùy Mai.
NGÔ HƯƠNG GIANGLàm thế nào để diễn giải hợp lý về Tường Thành?
KHẢI PHONGTôi đã có dịp gặp những trang thơ chân chất của Nguyễn Quang Hà trong “Tiếng gà trên đỉnh chốt”(1). Lần này gặp văn Nguyễn Quang Hà trong “Mùa xương rồng nở hoa” (2), cảm tưởng lưu lại trong tôi là văn anh gây được ấn tượng mạnh hơn thơ.
NGUYỄN ĐÔNG NHẬT19 lời chứng của những ONS(1) cuối cùng, lần đầu tiên được lên tiếng qua công trình nghiên cứu hoàn hảo của bà Liêm Khê LUGUERN(2) là những nhân chứng cuối cùng trong số khoảng 27.000 người từ Đông Dương bị lùa đến nước Pháp từ tháng 10/1939 đến tháng 6/1940 để phục vụ cho guồng máy chiến tranh của thực dân Pháp trong Thế chiến thứ II.
LÝ HẠNHAi trong đời chẳng đã một lần làm thơ. Dù làm thơ để giải trí hay sẻ chia thì những trang thơ ấy cũng là tiếng hát của trái tim, là nơi dừng chân của tâm hồn.
LTS: Có một chuyện ít người biết là các nhà văn Tô Hoài, Xuân Diệu, Huy Cận không nhớ ngày sinh của mình. Xuân Diệu, con nhà Nho, thì biết mình sinh giờ Thìn, ngày Thìn, tháng Thìn, năm Thìn, nhưng không biết dương lịch ngày nào. Nhà văn Tô Hoài cũng vậy, nhưng nhớ Bà Cụ cho biết sinh ông đêm rằm Trung Thu. Sau này, sang Nga, bạn người Nga hỏi, mới tra ra ngày Tây là 27-9-1920. Do đó trên các tư liệu, thường thấy ghi ngày sinh: 07-9-1920, và nhà văn cũng không buồn đính chính. Nhân kỷ niệm 90 năm ngày sinh nhà văn Tô Hoài, Sông Hương nhận được bài viết của nhà văn Đặng Tiến cùng thông tin về ngày sinh Tô Hoài nói trên. Xin giới thiệu cùng bạn đọc.
HOÀNG DŨNGKhông phải ngẫu nhiên khi ta nói vũ trụ, thế giới thì vũ, giới là không gian, mà trụ, thế là thời gian. Ngay trong những khái niệm tưởng chỉ là không gian, cũng đã có thời gian quấn quýt ở đấy.
LTS: Trong các ngày 7-9/9/2010 sắp đến, Ủy ban Văn hóa Hội đồng Giám mục Việt Nam và Tòa Tổng Giám mục Giáo phận Huế sẽ tổ chức Hội thảo về thân thế và sự nghiệp của Léopold Cadière (1869-1955), Nhà nghiên cứu về Huế và Việt Nam học, chủ bút của tập san Bulletin des Amis du Vieux Hué (B.A.V.H), một trong số các tờ báo hay nhất ở Đông Dương thuở trước. Hội thảo sẽ có một số nội dung liên quan đến văn hóa Huế như Văn hóa Huế, Mỹ thuật Huế, Cổ vật Huế dưới con mắt của L. Cadière... Nhân dịp này, Tạp chí Sông Hương đăng bài viết của nhà nghiên cứu Hồ Vĩnh, chuyển tải vài nét về hoạt động văn hóa của Léopold Cadière. Xin giới thiệu cùng bạn đọc.S.H
NGUYỄN THỊ HÒA Không cần phải bàn cãi, Từ điển tiếng Huế của Tiến sĩ, Bác sĩ Bùi Minh Đức là một tác phẩm Từ điển. Một quyển từ điển về phương ngữ địa phương Huế mà dày dặn, công phu, với 2050 trang, thể hiện công sức nghiên cứu miệt mài của một vị bác sĩ - nghiệp dư với nghề ngôn ngữ, nhưng đầy nhiệt tình và khá chuyên nghiệp trong nghiên cứu.
Sinh ngày 6-2-41 tại Huế. Hy sinh ngày 11-10-68 tại vùng biên giới tỉnh Tây Ninh, nguyên quán làng Bát Tràng tỉnh Bắc Ninh. Học sinh cũ Trường Quốc Học, tốt nghiệp Đại học Sư phạm Ban Việt văn. Tên thật và bút hiệu công khai, chính thức: Trần Quang Long. Các bút hiệu khác: Thảo Nguyên, Chánh Sử, Trần Hoàng Phong.
TRẦN HỮU LỤCỞ tuổi 20, hành trình sáng tác của Nhóm Việt gắn liền với những biến cố lịch sử ở miền Nam (1965-1975). Những cây bút trẻ của Nhóm Việt đã bày tỏ một thái độ dấn thân ngày càng sâu sắc, vừa trên bình diện ý thức công dân, vừa trên bình diện ý thức nghệ sĩ.
PHONG LÊ(Kỷ niệm 100 năm ngày sinh Nguyễn Tuân 10-7-1910 – 28-7-1987)
NGUYÊN QUÂN Phía đằng sau những con chữ bình dị như một chốn quê nhà chưa bị ô nhiễm cơn đau phố bụi, một ngôi làng yên bình vẫn luôn hằng hiện trong mỗi hơi thở, mỗi bước gian truân của tác giả là sự chân thật đến nao lòng.
LÝ HOÀI THU Những câu thơ đầu tay của Hữu Thỉnh cất lên từ những cánh rừng Trường Sơn được anh gọi là “Tiếng hát trong rừng”. Anh viết về đồng đội, về cơn sốt rét rừng, về những trận bom và vết hằn xe xích, về mây, suối, dốc, thác Trường Sơn.
THÁI DOÃN HIỂU…Khi sự vong ân bội nghĩa của người đời đang diễn ra ở khắp đó đây thì Hoàng Trần Cương là người sống bằng ân sâu nghĩa cả. Với anh, ân nghĩa là một gánh nặng phải gánh. Anh nói về ân nghĩa như là một thứ trí nhớ của lương tri, một món nợ không bao giờ trả xong…
VŨ DUY THÔNG (Thơ - Nghiêm Huyền Vũ, Nxb Trẻ 2000)Khác với bên ngoài, Nghiêm Huyền Vũ trong thơ là người trầm tư, cái trầm tư nhuốm vị triết học.Vây bọc quanh anh là không gian, thứ không gian cô liêu.
TRẦN QUỐC THỰCÍt người chịu đi tìm tiếng nói riêng khi đọc một tập thơ, một chặng thơ của một người. Qua từng chặng thơ, tiếng nói riêng ấy sẽ trở thành một cách thơ riêng biệt. Và đó là điều đáng mừng cho đội ngũ sáng tác.
NGUYỄN THANH TÚ (Phác thảo chân dung nhà văn Nguyễn Bảo)
LGT: Cuốn tiển thuyết “Biết đâu địa ngục thiên đường” của nhà văn Nguyễn Khắc Phê vừa xuất bản được xem là tác phẩm thành công nhất của ông, cũng là cuốn tiểu thuyết viết kỹ lưỡng nhất, lâu nhất. Cuốn tiểu thuyết này hiện nay nằm trong danh sách những cuốn vào chung khảo cuộc thi tiểu thuyết của Hội Nhà văn Việt Nam. Sông Hương xin giới thiệu những ý kiến nhận định rất chân thành của Giáo sư Trần Đình Sử, nhà văn Ma Văn Kháng và nhà nghiên cứu phê bình Từ Sơn.
FAN ANHCon người khác con vật không chỉ ở đặc điểm con người có một bản ngã, một cái tôi luôn biến động, mấu chốt nằm ở chỗ, con người có thể có nhiều bản ngã khác nhau, tồn tại một cách âm thầm trong những thế giới mà nhiều khi ngay bản thân mỗi cá nhân chúng ta cũng không thể am tường hết.