Giải mã thơ văn trên di sản Huế - Kỳ 2: Thơ Minh Mạng trên Hiếu Lăng

10:02 24/07/2015

Hệ thống thơ văn trên di tích Huế có một phần rất lớn là Ngự chế thi của vua Minh Mạng, trong đó, đặc biệt tại Hiếu Lăng (lăng vua Minh Mạng) là nơi có nhiều thơ của nhà vua được chạm khắc, trang trí để lưu truyền cho hậu thế.

Trang trí thơ văn trong nội thất điện Sùng Ân, lăng Minh Mạng - Ảnh: Bùi Ngọc Long

Sáng tác của vua Minh Mạng
Theo tài liệu của Trung tâm bảo tồn di tích cố đô Huế, Hiếu Lăng (thường gọi là lăng vua Minh Mạng), nằm ở ngọn Hiếu Sơn (thôn An Bằng, nay là thôn La Khê Bãi, xã Hương Thọ, thị xã Hương Trà, Thừa Thiên-Huế). Hiếu Lăng được xây dựng vào năm Minh Mạng thứ 21 (1840) và sau khi khởi công được khoảng 5 tháng (từ tháng 9.1840 - 1.1841) thì vua Minh Mạng đột ngột băng hà. Vua Thiệu Trị đã kế tục việc xây dựng lăng và hoàn thành vào năm 1843. Đây là nơi yên nghỉ của vua Minh Mạng, hiệu Thánh tổ Nhân Hoàng đế.
Vua Minh Mạng (1791 - 1841), trị vì đất nước được 21 năm (1820 - 1841) và là một vị hoàng đế anh minh. Sách Đại Nam thực lục của Quốc Sử quán triều Nguyễn ghi chép rằng dưới triều đại của ông, “lễ nhạc được tu sửa, hình, chính được thanh bình, hộ khẩu mỗi năm mỗi tăng, bờ cõi mỗi ngày mỗi rộng”. Vua Minh Mạng không chỉ có tài kinh bang tế thế, trị quốc an dân, ông còn là một người giỏi văn thơ, nổi tiếng với tác phẩm Ngự chế văn (gồm 2 tập) cùng nhiều bài minh khắc vào bia, cổ khí (chuông, khánh…) và tác phẩm Ngự chế thi gồm 6 tập, mỗi tập 10 quyển. Ngoài ra, tác phẩm của vua Minh Mạng còn có các tập thơ Tiễn Bình Nam Bắc Xiêm khấu nghịch phỉTiêu cơ dự triệu và một thiên Trù biên chưa kịp làm xong.
Thơ trang trí trên Hiếu Lăng tập trung chủ yếu tại các công trình kiến trúc như: Nghênh Lương quán, Bi đình, Hiển Đức môn, Sùng Ân điện, Minh lâu, Nghi môn… Hiện tại còn tổng cộng 475 ô thơ, trong đó có 463 ô hộc vẫn còn thơ và 12 ô hộc bị mất hoàn toàn. Ngoài ra, chưa kể một số công trình vốn đã bị sụp đổ hoàn toàn, chỉ còn lại nền móng, nằm ở hai bên của trục thần đạo như: Truy Tư trai, Quan Lan sở, Điếu Ngư đình... nên thơ văn cũng bị mất.
Theo ThS Lê Na, cán bộ Phòng Nghiên cứu của Trung tâm bảo tồn di tích cố đô Huế, căn cứ vào kết quả khảo sát và nghiên cứu, đối chiếu các tác phẩm của vua Minh Mạng, tất cả các bài thơ trang trí trên di tích Hiếu Lăng đều chính là những áng thơ được trích từ các tập Ngự chế thi của vua Minh Mạng.
Khẩu khí thơ của bậc đế vương
Theo ThS Lê Na, thơ của vua Minh Mạng ở Hiếu Lăng chủ yếu là thơ tả cảnh, ngôn ngữ sử dụng đơn giản, dễ hiểu nhưng luôn gửi gắm trong đó những lời răn dạy bề tôi và thần dân trăm họ, cùng những hoài bão, tâm huyết xây dựng một đất nước mạnh giàu, ca ngợi cảnh yên bình, nhân dân ấm no hạnh phúc. Chính trong Đại Nam thực lục cũng đã từng ghi chép tâm sự của nhà vua: “Nếu ngẫm nghĩ những lời thơ ấy mà biết trẫm khó nhọc, thì nên cảm động mà thi thố mưu mô để giúp trẫm những việc không nghĩ đến, cho chính sự tốt đẹp, trong ngoài yên vui, thế trẫm mới cho thơ không phải vô ích, thì trẫm vui mừng biết nhường nào”.
Sau đây là một vài bài thơ tiêu biểu của vua Minh Mạng trang trí ở Hiếu Lăng được Trung tâm bảo tồn di tích cố đô Huế phiên âm và dịch nghĩa:
Bài thơ ca ngợi cảnh sống sung túc, buôn bán sầm uất của người dân khắc ở Minh Lâu được trích một phần trong bài Thừa lương đăng Minh Viễn lâu đề bích, trong tập 4, quyển thứ 7 của Ngự chế thi của vua Minh Mạng:
Phiên âm:
Thông cù bách hóa tập
Tỉ ốc vạn nhân gia
Thủy ảnh chiếu song thượng
Sơn quang nhập hạm tà
Tạm dịch:
Đường lớn trăm hàng hóa tụ hội về
Nhà cửa san sát muôn người kinh doanh
Lấp lánh ánh sông lên cửa sổ
Chếch nghiêng bóng núi chiếu bên hiên
Hay bài thơ khác ở Minh Lâu trích trong Ngự chế thi tập 1, quyển 3, nhà vua đã ca ngợi phong thủy của xứ kinh đô Thuận Hóa:
Phiên âm:
Hồi hồi triều phúc địa
Hoàn nhiễu điện kim thang
Thuận Hóa sơn xuyên tú
Di mưu tộ vĩnh xương
Tạm dịch:
Bao quanh chầu đất phước
Vây bọc vững thành trì
Thuận Hóa núi sông đẹp
Mưu tính mãi vững bền
Còn rất nhiều bài thơ mang khẩu khí của một bậc đế vương nhưng ngôn ngữ rất khoan hòa, dung dị mà trong khuôn khổ bài viết không thể giới thiệu hết.
Theo TNO

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • Theo truyền thuyết, ngày xửa ngày xưa, có một vị thần gánh đất để ngăn sông đắp núi. Một hôm vị thần đó đang gánh đất thì bỗng nhiên đòn gánh bị gãy làm hai, nên bây giờ đã để lại hai quả đất khổng lồ khoảng cách nhau hơn một km đó chính là núi Linh thái và núi Túy Vân ngày nay thuộc xã Vinh Hiền, huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên – Huế.

  • Vua Gia Long vốn không phải là con người hiếu sát. Ngay cả việc đối với họ Trịnh, hai bên đánh nhau ròng rã 45 năm trời, vậy mà khi đã lấy được nước (1802), vẫn đối xử tốt với con cháu họ Trịnh chứ đâu đến cạn tàu ráo máng như với Tây Sơn?

  • Các hoàng đế nước Việt xưa phần lớn giỏi chữ Hán, biết thơ văn, triều Lý, Trần, Lê, Nguyễn đời nào cũng có các tác phẩm ngự chế quý giá. Nhưng tất cả các tác phẩm ấy đều nằm trong quỹ đạo Nho Giáo, dùng chữ Hán và chữ Nôm để diễn đạt cảm xúc về tư tưởng của mình. 

  • Trái với sự nổi tiếng của lăng mộ các vua nhà Nguyễn, lăng mộ 9 chúa Nguyễn ở Huế không được nhiều người biết đến...

  • Nhắc đến vua Minh Mạng, người đời nghĩ đến ngay hình ảnh của một quân vương nổi tiếng quyết đoán và giai thoại về năng lực giường chiếu phi thường.

  • Chiều 3/10, chiếc xe kéo của Hoàng thái hậu Từ Minh, mẹ vua Thành Thái chính thức được chuyển vào Đại sứ quán Việt Nam tại Pháp để chuẩn bị đưa về Việt Nam. 

  • Đèo Hải Vân nằm trên dãy Trường Sơn, ở ranh giới 2 tỉnh Thừa Thiên-Huế (phía bắc) và TP.Đà Nẵng (phía Nam). Đây là con đèo hiểm trở nhất dọc tuyến đường bắc nam, do có vị trí địa lý hiểm yếu, bởi kiến tạo địa chất của dãy núi cắt ngang đất nước, từ biên giới phía Tây tới sát biển Đông.

  • Cứ đến gần cuối năm, khi lúa trên rẫy đã đến độ chín vàng. Trời đông cũng đang se sắt lạnh, sương trắng bồng bềnh bay trên đỉnh núi A Túc là lúc mà toàn thể dân làng dù là tộc người Pacôh, TàÔi, Cơtu hay Pa hy.

  • Là điểm du lịch nổi tiếng của Thừa Thiên - Huế, Bạch Mã có rất nhiều nơi để tham quan như: Thác Đỗ Quyên, Ngũ Hồ, Vọng Hải Đài với vẻ đẹp của núi trời như một bức tranh thủy mặc.

  • Sau chiến tranh, gần 2/3 trong tổng số gần 300 công trình kiến trúc nghệ thuật cung đình của cố đô Huế trở thành phế tích, số còn lại trong tình trạng hư hại, xuống cấp nghiêm trọng. Cùng với việc nỗ lực hàn gắn vết thương chiến tranh, tỉnh Thừa Thiên - Huế đã mở cuộc vận động bảo vệ di tích Huế và đạt kết quả to lớn.

  • Được xây dựng cách đây hơn 400 năm với bao biến động nhưng chùa Thiên Mụ vẫn giữ được vẻ uy nghi, thanh tịnh và cổ kính bên dòng sông Hương...

  • Không nơi đâu người phụ nữ lại thích mặc áo dài như ở Huế. Thậm chí, chiếc áo dài đã trở thành biểu tượng của các cô gái Huế. Điều đó đã làm cho  du khách khi đến với Huế nhiều khi phải ngẩn ngơ khi có dịp được ngắm nhìn, chiêm ngưỡng.

  • Thời 13 vua Nguyễn (1802-1845) trị vì triều đại phong kiến cuối cùng Việt Nam đóng kinh đô tại Huế đã ghi nhận một số hoạt động khá phong phú của ngựa, dù thời này ngựa ít được dùng vào hoạt động quân sự.

  • Trong tất cả các triều đại phong kiến, duy nhất ở cố đô Huế có Bình An Đường là nhà an dưỡng và khám, chữa bệnh đặc biệt chỉ dành riêng cho các thái giám, cung nữ (thời vua nhà Nguyễn).

  • Huế, miền đất cố đô nằm ở miền trung Việt Nam, vẫn được biết đến như một thành phố thơ mộng và lãng mạn.

  • Đối với di sản văn hóa của dân tộc, tài liệu châu bản là một di sản có giá trị lớn. Đó là ký ức của lịch sử, là nguồn sử liệu gốc có ý nghĩa to lớn đối với việc nghiên cứu và biên soạn lịch sử dân tộc. Tuy nhiên, hầu hết các triều đại phong kiến Việt Nam đều không còn lưu giữ được nguồn tài liệu quý báu này, trừ triều Nguyễn (1802-1945), do những điều kiện lịch sử đặc biệt.

  • Hình ảnh thiên nhiên, con người và những lăng tẩm đền đài của xứ Huế vương vấn bước chân du khách mỗi lần có dịp ghé qua...

  • Làng Mỹ Lợi (xã Vinh Mỹ) và làng An Nông (xã Lộc Bổn, huyện Phú Lộc, Thừa Thiên- Huế) là nơi lưu giữ những tài liệu chứng minh chủ quyền biển đảo Hoàng Sa của nước ta. Những tài liệu quý hàng trăm năm tuổi được người dân các ngôi làng này xem như báu vật và dốc sức giữ gìn.

  • Ngày 15/8/1945, Nhật tuyên bố đầu hàng Đồng Minh cũng là lúc ở Việt Nam, các thế lực bước vào một cuộc chạy đua nước rút để nắm quyền định đoạt tương lai nước này sau 80 năm là thuộc địa Pháp.

  • Khải Định đã tìm được một thế đất dường như “sinh ra để làm nơi ngả lưng cho một linh hồn quyền quý”…