Thời gian tổ chức không nhiều, chương trình tập trung vào một số hoạt động văn hóa nghệ thuật. Trước yêu cầu phải thể hiện được bản sắc văn hóa Việt Nam, đặc biệt văn hóa Huế, anh chị em hội viên sân khấu và múa chủ yếu ở các đoàn Ca múa truyền thống và Đoàn Ca kịch Huế đã được Ban tổ chức điều động sắp xếp xây dựng chương trình biểu diễn. Quá phấn khởi, anh chị em đã sưu tầm một số bài bản cũ tái hiện lại qua sự dàn dựng của các biên đạo, đạo diễn tên tuổi ngày đêm tập luyện. Tạp chí Sông Hương đã dành riêng hẳn một số chuyên đề về hoạt động Festival Việt Pháp này. Giới mỹ thuật BTC cũng đã mời một số họa sĩ Huế sáng tác tranh chung với họa sĩ người Pháp tại trường Mỹ thuật Huế. Khởi thủy là thế. Tám năm sau, năm 2000, Festival Huế lần thứ I được tổ chức tiếp nối lần tổ chức thể nghiệm trước. Lần này, ngoài anh chị em nghệ sĩ biểu diễn của hai đoàn Ca múa Cung đình và Ca kịch Huế tham gia vào các chương trình phối hợp, còn có chương trình biểu diễn riêng của CLB Phú Xuân gồm các nghệ nhân cổ nhạc với các chương trình nhã nhạc hằng đêm trong suốt Festival. Anh chị em nghệ sĩ nhiếp ảnh tổ chức triển lãm ảnh nghệ thuật Đen Trắng và ảnh giao lưu 3 thành phố Hà Nội - Huế - TP.Hồ Chí Minh. Giới mỹ thuật tổ chức phòng triển lãm mỹ thuật TT.Huế. Đặc biệt BTC lần này tổ chức Trại sáng tác Điêu khắc lần I, kinh phí do quỹ Ford tài trợ. Trường Đại học Nghệ thuật chịu trách nhiệm cho đến lần thứ IV (2006) mới giao lại cho BTC Festival điều hành. Trại lần đầu ấy có trên 30 nghệ sĩ điêu khắc trong nước và các quốc gia đến dự, trong đó có hai tác giả Huế tham gia. Trại điêu khắc quốc tế đầu tiên tổ chức ở công viên Lý Tự Trọng, các lần sau, mỗi lần một địa điểm như lần thứ II tại công viên 3-2, lần III tại công viên Phu Văn Lâu, lần thứ IV tại khu vực đồi Thiên An, lần thứ V tại Abalon Resort (Thuận An). Mỗi lần có từ 20 đến 30 tác giả trong và ngoài nước tham gia, các tác phẩm từ các trại sáng tác được tặng cho nhân dân TT.Huế và hiện đang chờ đợi để đứng vào vườn Điêu khắc của tỉnh trong tương lai. Festival lần đầu kết thúc, anh chị em văn nghệ sĩ có những cảm nghĩ khác nhau, nhưng đều thấy rằng cần có thái độ ủng hộ, không chỉ bằng lời mà bằng những việc làm cụ thể. Đến Festival 2002, với quyết tâm của lãnh đạo tỉnh muốn tổ chức thường xuyên theo định kỳ hai năm một lần. Do đó BTC đã ra sức tìm kiếm các nguồn tài trợ cũng như mời gọi sự tham gia của các đoàn nghệ thuật của nhiều quốc gia. Lần này giới văn nghệ sĩ đã bắt đầu quen với việc tổ chức. Ngoài lực lượng sân khấu và múa là chủ lực trong các hoạt động gồm những chương trình biểu diễn, còn anh chị em mỹ thuật, nhiếp ảnh, cả âm nhạc và kiến trúc cũng có những cách để góp phần. Mỹ thuật tổ chức nối kết các tác giả 3 thành phố Hà Nội - Huế -TP. Hồ Chí Minh và bày tại Khách sạn Morin. Đặc biệt, các họa sĩ CLB Mỹ thuật Nhà Văn hóa Huế đã thực hiện Hội chợ Mỹ Thuật tại Nghinh Lương Đình, tổ chức nhiều hoạt động gây hứng thú với nhiều hình thức mới như tổ chức không gian nghệ thuật sắp đặt, đưa tác phẩm ra ngoài trời để đến với công chúng, anh chị em sáng tác và vẽ chân dung cho những người đến với hội chợ. Bước đầu hoạt động mỹ thuật cộng đồng tổ chức ở Huế được quan tâm và công chúng rất ấn tượng với hoạt động này. Ngoài Huế - Bài thơ đô thị là tên gọi cuộc triển lãm ảnh nghệ thuật của các tác giả Huế thì bên cạnh đó, các tác giả của thành phố Hồ Chí Minh đã cùng tham gia bằng các cuộc triển lãm trên thành phố, tạo nên sự đa dạng. Đây cũng là dịp hội ngộ của các nhà nghệ sĩ nhiếp ảnh trên toàn quốc về Huế tìm cách ghi lại những khoảnh khắc đẹp từ Festival. Hội Kiến trúc sư năm ấy cũng góp phần bằng việc phối hợp với Nhà Thiếu nhi Huế tổ chức cuộc thi “Các nhà kiến trúc sư nhỏ tuổi”. Nhiều ý tưởng từ các mô hình đô thị được các em của các trường phổ thông cơ sở đã thực hiện, có nhiều ý tưởng lạ và hay, đem lại hiệu quả trong giáo dục. Để có khái niệm cấu trúc đô thị trong các em, đó là việc làm hữu ích. Về văn học thì Tuyển tập tác phẩm của nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường được Công ty Phương Nam phát hành cũng được ra mắt bạn đọc trong lần này. Những cuộc gặp gỡ giao lưu ở các sân khấu của chương trình Festival đã giới thiệu các tác giả Huế đến với công chúng, nhiều nghệ sĩ tích cực tham gia trong chương trình nhạc Trịnh Công Sơn được dư luận hoan nghênh đón nhận. Sau Festival 2002, Huế vẫn tiếp tục cứ hai năm một lần tổ chức Festival. Việc nối kết các hoạt động văn hóa nghệ thuật của các nhóm nghệ thuật muốn đến với Huế cũng nhiều hơn, yêu cầu Festival cần có nhiều hoạt động hưởng ứng. Chương trình In là những chương trình được chọn lựa trong quá trình nối kết để trở thành những hoạt động tại khu vực chính ở Hoàng thành và một số nơi khác. Các chương trình hoạt động hưởng ứng phần OFF được tổ chức nhiều nơi khác trong thành phố. Những kết quả trước đó cho thấy, để hiểu về tinh thần của một Festival là sự góp mặt, cộng hưởng chứ không chỉ hưởng thụ, càng có nhiều người tham gia thì thành công càng lớn. Văn nghệ sĩ TT.Huế nhận thức được điều đó nên đã tìm cách góp phần mình bằng việc làm cụ thể hơn trong Festival 2004 và các kỳ sau đó. Ngoài những hoạt động của các nghệ sĩ sân khấu, múa tham gia vào các chương trình chính của các lễ hội, các sân khấu chính thì các hoạt động của mỹ thuật và nhiếp ảnh đã có những thay đổi trong việc tổ chức. Ngoài tổ chức triển lãm mỹ thuật 3 thành phố, Trại sáng tác Điêu khắc Quốc tế, năm 2004 có thêm trại sáng tác điêu khắc Dân Gian dành cho các nghệ nhân các dân tộc miền Tây tổ chức ở xã Hương Hồ, cách xa thành phố hàng chục cây số. Hoạt động mỹ thuật lần này chiếm lĩnh con đường đi bộ Nguyễn Đình Chiểu là con đường mới được mở ra để đáp ứng yêu cầu cho hoạt động của thành phố văn hóa du lịch. Hoạt động nghệ thuật cộng đồng được tổ chức trên đường Nguyễn Đình Chiểu, Công viên 3-2, Công viên Tứ Tượng với nhiều tên tuổi trong nước đến tham gia. Những hình thức nghệ thuật sắp đặt, trình diễn, vẽ chân dung, trình diễn nhạc phối hợp… Các cuộc triển lãm nhóm và cá nhân được tổ chức tại các họa thất, các gallery đã được tỏa rộng khắp thành phố. Nhiếp ảnh phối hợp với Hội Nghệ sĩ Nhiếp ảnh Việt Nam tổ chức một cuộc thi lớn trong cả nước với chủ đề Lễ hội Việt Nam truyền thống và phát triển, có nhiều kết quả. Qua Festival 2004, sự hồ hỡi hưởng ứng của anh chị em văn nghệ sĩ TT.Huế ngày càng nhiều, nhiều địa chỉ để trở thành điểm kết nối các hoạt động văn hóa không chỉ trong thành phố mà còn lan rộng ra ngoại vi tạo nên một diện rộng để người xem có cơ hội đi vòng quanh thành phố. Sau lần tổ chức này lãnh đạo tỉnh quyết định Festival thường xuyên tổ chức hằng năm, phấn đấu Huế trở thành thành phố Festival. Muốn vậy thì Huế phải luôn luôn tổ chức lễ hội xen kẽ vào giữa hai kỳ Festival, thế là Festival nghề từ đó ra đời. Đến nay đã tổ chức 3 kỳ, năm 2005 với nghề thêu, chằm nón, năm 2007 nghề đúc đồng, kim hoàn, chạm khảm, năm 2009 với nghề sơn mài, gốm sứ, pháp lam... Trong các lần tổ chức đều có sự tham gia tích cực của văn nghệ sĩ Huế với những công trình, những phòng trưng bày tác phẩm nghệ thuật. Không những vậy, anh chị em còn rủ rê văn nghệ sĩ từ nơi khác đến cùng tham gia, đã tạo nên cộng hưởng lớn cho mỗi kỳ Festival. Đến Festival 2006, những kết nối đã trở nên rộng rãi các nghệ sĩ từ nhiều quốc gia, từ nhiều tỉnh thành trong nước. Họ đến với Festival bằng nhiều hình thức, nhiều loại hình nghệ thuật độc đáo, đa dạng. Gần như các văn nghệ sĩ của địa phương đều có các hình thức góp mặt. Lần này thì các nhà văn xắn tay áo vào cuộc bằng tổ chức Festival Thơ lần đầu, quy tụ nhiều tác giả thơ trong tỉnh và các nơi đến với Huế, tổ chức ra mắt các tác phẩm thơ, giao lưu tác giả tác phẩm, triển lãm thơ bằng các hình thức như trình bày trên các Paneau, các tác phẩm nghệ thuật sắp đặt, làm cho không gian của công viên 3-2 tưng bừng ngày hội của thơ ca. Đã hai lần Festival Thơ, mỗi năm mỗi hình thức khác nhau, đã để những dấu ấn sâu sắc trong lòng công chúng yêu thơ. Người ta vẫn còn nhớ các tác phẩm sắp đặt trong hệ thống Cổng thơ, Thư pháp Sen, Quãng trường Thi ca…với sự góp mặt những tên tuổi trong làng thơ Việt Nam. Với năm 2010, chủ đề hướng về Thăng Long - Hà Nội ngàn năm, Festival Thơ lần này chắc chắn sẽ có những đổi mới với nhiều sân chơi và đa dạng hơn về hình thức. Với Hội Âm nhạc thì hoạt động trại sáng tác âm nhạc Quốc tế là một quyết tâm mạnh mẽ. Hội đã được BTC đồng ý để trở thành một hoạt động chính và vận động các nhạc sĩ trong và ngoài nước cùng đến tham gia. Lần đầu tiên tổ chức năm 2006, anh chị em đã dồn mọi nỗ lực để thực hiện, kết quả để lại là những tác phẩm được dư luận đánh giá cao, anh em văn nghệ tự đánh giá đó là sự bạo gan. Festival Huế 2008 với sự tham gia của nhiều nghệ sĩ, nhiều tổ chức khác trong nước đã đem nhiều hình thức mới đến Huế. Ngày càng nhiều sự hưởng ứng của công chúng Huế tham gia vào Festival. Đặc biệt văn nghệ sĩ đã xem đây là cơ hội để mình thể hiện, trước hết là thái độ của công dân, và sau đó là vào cuộc chơi mà ở đây vừa là người sáng tạo, vừa là khán giả. Cũng qua Festival, nhiều tác giả, nhiều địa danh, địa chỉ đã trở thành tên tuổi gắn liền với tác phẩm cũng như sự kiện được tổ chức ở đó. Năm lần tổ chức Festival văn hóa và ba lần tổ chức Festival nghề truyền thống, giới văn nghệ sĩ Huế đã có những kinh nghiệm, trải qua những thử thách với chính mình để thể hiện trách nhiệm trong việc tham mưu và tổ chức các hoạt động phối hợp với sự phát triển chung. Nhiều hoạt động thời gian qua không thể tính hết, có những hoạt động chỉ lặng lẽ góp phần, có thể là của một số họa sĩ vẽ chân dung người qua đường, hoặc làm người đứng gác cho một tác phẩm sắp đặt khỏi bị xâm hại, hay ý tưởng để giúp cho các họa sĩ khác thể hiện tác phẩm... tất cả họ đã góp phần vào thành công chung cả họ và của công chúng. Bây giờ Huế đã trở thành Thành phố Festival, họ càng thấy mình cần phải có trách nhiệm hơn. Tuy nhiên phía nhà quản lý thì phải làm sao tạo nhiều cơ hội, nhiều thiết chế văn hóa để văn nghệ sĩ có điều kiện được cống hiến nhiều hơn, ngày càng có nhiều người đến với Festival hơn. ĐẶNG MẬU TỰU (SDB – 5-2010) |
Trí thức là những người mà lao động hàng ngày của họ là lao động trí óc, sản phẩm của họ làm ra là những sản phẩm trí tuệ, nhưng sản phẩm ấy phải là những sản phẩm có ích cho xã hội...
Ở Huế ngày xưa, người học trò nào cũng có một “Tủ sách Học trò” riêng tư cho mình và nhà nào cũng có một “Tủ sách Gia đình” để dùng chung trong nhà. Người Huế rất trọng học vấn, rất trọng sự hiểu biết nên rất trọng sách. Vì vậy, họ cất sách rất kỹ. Họ thường cất sách để làm kỷ niệm riêng tư cho mình về sau đã đành mà họ còn cất sách để dành cho đám đàn em con cháu của họ trong gia đình, dùng mà học sau nầy. Người Huế nào cũng đều cùng một suy nghĩ là ở đời, muốn vươn lên cao thì phải học và đã học thì phải cần sách. Đối với họ, sách quý là vậy. Lễ giáo Khổng Mạnh xưa cũng đã đòi hỏi mỗi người Huế thấy tờ giấy nào rớt dưới đất mà có viết chữ Hán “bên trên” là phải cúi xuống lượm lên để cất giữ “kẻo tội Trời”! Người xưa cũng như họ, không muốn thấy chữ nghĩa của Thánh hiền bị chà đạp dưới chân.
1. Trung tâm văn hóa tôi muốn đề cập ở đây là thành phố Huế của tỉnh Thừa Thiên Huế. Đã là một Trung tâm văn hóa thì bao giờ cũng quy tụ nhiều nhân tài lớn, trên nhiều lĩnh vực, từ mọi miền đất nước, thậm chí từ cả ngoài nước, trải qua nhiều thế hệ, nhiều thử thách khó khăn mới vun đắp lên nổi một truyền thống, mà có được truyền thống văn hóa lại càng khó khăn hơn. Trong bài viết này tôi chưa đề cập tới những nhà khoa học, những nhà văn hóa và văn nghệ sĩ xuất sắc đang sống và hoạt động tại Thừa Thiên Huế, mà tôi chỉ muốn nói tới chủ yếu các vị đã qua đời nhưng đã để lại dấu ấn sâu đậm, lâu dài cho mảnh đất này, góp phần quan trọng hình thành nên truyền thống văn hóa Huế.
Trên thế giới có nhiều nền văn hóa khác nhau. Trong mỗi nước, ngoài mẫu số chung về nền văn hóa của cả dân tộc, còn có văn hóa vùng miền được phân định căn cứ vào đặc điểm nhân văn riêng của từng nơi. Nơi nào có được tính cách nhân văn đặc thù thì nơi ấy có văn hóa địa phương hay văn hóa bản địa. Một từ mà các nhà văn hóa học năng sử dụng khi đề cập đến lĩnh vực này là “bản sắc”. Nếu dùng từ bản sắc làm tiêu chí để nhận diện văn hóa thì Việt Nam có nền văn hóa riêng của mình, trong đó có văn hóa Huế.
Tôi quê Hà Tĩnh, nhưng lại sinh ra ở Huế, khi ông cụ tôi ngồi ghế Phủ Doãn, tức là “sếp” cái cơ quan đóng bên bờ sông Hương ở giữa Bệnh viện Trung ương Huế và Trường Hai Bà Trưng - Đồng Khánh xưa, nay đang được xây dựng to đẹp đàng hoàng gấp nhiều lần ngày trước. (Thời Nguyễn phong kiến lạc hậu, nhưng lại có quy chế chỉ những người đậu đạt cao và thường là người ngoại tỉnh mới được ngồi ghế Phủ Doãn để vừa có uy tín, học thức đối thoại được với quan chức trong Triều, vừa tránh tệ bênh che hay cho người bà con họ hàng chiếm giữ những chức vụ béo bở. Nói dài dòng một chút như thế vì nhiều bạn trẻ thời nay không biết “Phủ Doãn” là chức gì; gọi là “Tỉnh trưởng” cũng không thật đúng vì chức Phủ Doãn “oai” hơn, do Huế là kinh đô, tuy quyền hành thực sự người Pháp nắm hầu hết).
*Từ tâm thức kính sợ trời đất đến lễ tế Giao: Từ buổi bình minh của nhân loại, thiên nhiên hoang sơ rộng lớn và đầy bất trắc, với những hiện tượng lạ kỳ mưa gió, lũ lụt, sấm chớp, bão tố... đã gieo vào lòng người nhiều ấn tượng hãi hùng, lo sợ. Bắt nguồn từ đó, dần dần trong lịch sử đã hình thành tập tục thờ trời, thờ đất, thờ thần linh ma quỷ. Đó là nơi trú ẩn tạo cảm giác an toàn cho con người thuở sơ khai. Ở phương Đông, tập tục thờ cúng trời đất, thần linh gắn liền với việc thờ cúng tổ tiên, ông bà, phổ biến từ trong gia đình đến thôn xóm, làng xã. Khi chế độ quân chủ hình thành, một số triều đình đã xây dựng những “điển lệ” quy định việc thờ cúng trời đất, thần linh, với những nghi thức trang trọng, vừa biểu thị quyền uy tối thượng của nhà vua, vừa thể hiện khát vọng mong cầu quốc thái dân an, thiên hạ thái bình, phong hoà vũ thuận của muôn dân.
Sông Hương thuộc loại nhỏ của Việt Nam, nhưng với Thừa Thiên Huế có thể nói là “tất cả”. Hệ thống sông Hương cung cấp nước, tạo môi trường để phát triển gần như toàn bộ nền kinh tế - xã hội của Thừa Thiên Huế, đặc biệt sông Hương còn là biểu tượng của Huế, hai bên bờ mang nặng di sản văn hoá nhân loại. Nhưng đồng thời nó cũng đưa lại những trận lụt lớn vào mùa mưa, nhiễm mặn vào mùa hè...
Huế được Chính phủ xác định là một trong 5 thành phố cấp quốc gia, nằm trong khu vực kinh tế trọng điểm của miền Trung, cơ cấu kinh tế từng bước chuyển dịch theo hướng công nghiệp, dịch vụ du lịch. Quá trình phát triển đô thị, Huế đồng thời cũng đứng trước những thử thách mới, còn nhiều bất cập nhưng Huế vẫn giữ được nét kiến trúc riêng. Hình ảnh một thành phố mà kiến trúc và thiên nhiên hoà quyện, phải chăng đó là bản sắc Huế, khó trộn lẫn với bất kỳ một đô thị nào khác trong cả nước.
I. Toàn cầu hóa và lý luận văn học: I.1. “Toàn cầu hóa” làm cho “thế giới trở nên phẳng” (Thomas F.Fredman). Lý luận văn học là một lĩnh vực khoa học nhằm cắt nghĩa, lý giải, khái quát văn chương, đặt trong khung cảnh đó, nó cũng được “thế giới hóa”, tính toàn cầu hóa này tạo nên một mặt bằng chung, hình thành một ngôn ngữ chung. Từ đó mới có sự đối thoại, tiếp biến học hỏi lẫn nhau giữa các nền lý luận của các châu lục, quốc gia tạo nên một thể thống nhất trong đa dạng.
Đêm Nguyên tiêu 15 tháng giêng Quý Mùi 2003, thực hiện chủ trương của Hội Nhà văn Việt Nam, Hội Văn học Nghệ thuật Thừa Thiên Huế, Chi hội Nhà văn Việt Nam tại TTH đã tổ chức trên sông Hương một đêm thơ rất tuyệt vời. Ban tổ chức cho biết Hội Nhà văn Việt Nam đã được phép quyết định kể từ năm nay lấy ngày 15 tháng giêng âm lịch hằng năm làm Ngày Thơ Việt Nam. Quyết định ấy lay động tâm trí tôi vốn đang ưu tư với Huế Thành phố Festival, thay vì đọc thơ, trong đêm Nguyên tiêu ấy tôi đã phác họa sơ lược về một Festival thơ. Không ngờ ý kiến của tôi được Đêm thơ Nguyên tiêu hưởng ứng và các nhà thơ đã đề nghị tôi nên thực hiện một Hồ sơ cho Festival Thơ.
Trí thức trong bất cứ thời đại nào và ở đâu cũng là một nguồn lực quan trọng, là sức mạnh tinh thần nối kết truyền thống của dân tộc với thành tựu trí tuệ của thời đại. Khi nguồn lực trí tuệ của đội ngũ trí thức gắn kết được với sức mạnh cộng đồng thì xã hội sẽ có những chuyển biến tích cực. Ngược lại, nguồn lực trí tuệ không được phát huy thì năng lực phát triển của xã hội sẽ bị suy thoái. Thừa Thiên Huế có một thời là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá của Đàng Trong và trở thành kinh đô của cả nước. Vì thế Huế đã từng là nơi hội tụ nhiều thế hệ trí thức tinh hoa của đất nuớc. Lớp trí thức lớn lên tại Thừa Thiên Huế có điều kiện tiếp cận với những thiết chế và sinh hoạt văn hoá, học thuật có tầm cở quốc gia (Quốc Tử Giám, Quốc Sử Quán, Hàn Lâm Viện, Thái Y Viện. Khâm Thiên Giám.. ), năng lực trí tuệ của trí thức ở kinh kỳ có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển, cả trên lĩnh vực tư duy sáng tạo và quản lý, thực hành.
I. Sự hình thành và phát triển hệ thống đường phố ở Huế: Trước khi Huế được chọn để xây dựng kinh đô của nước Việt Nam thống nhất, đất Phú Xuân - Huế kể từ năm 1738 đã là nơi đóng đô thành văn vật của xứ Đàng Trong dưới thời chúa Nguyễn Phúc Khoát. Rồi Phú Xuân lại trở thành kinh đô Đại Việt của nhà Tây Sơn. Năm 1802, Nguyễn Phúc Ánh toàn thắng quân Tây Sơn; từ Thăng Long ông trở về Phú Xuân, chọn lại đất ấy, lấy ngày lành, lên ngôi vua, xưng hiệu là Gia Long. Tháng 5 năm 1803, nhà vua sai người ra ngoài bốn mặt thành Phú Xuân, xem xét thực địa, định giới hạn để xây dựng kinh thành mới. Trên cơ sở mặt bằng thành Phú Xuân cũ, lấy thêm phần đất của 8 làng cổ lân cận, mở rộng diện tích để xây dựng nên một kinh thành rộng lớn hơn trước. Cùng với việc xây dựng thành quách, cung điện, nha lại, sở ty... thì đường sá trong kinh thành cũng được thiết lập.
Thừa Thiên Huế là thủ phủ Đàng Trong thời các chúa Nguyễn, là kinh đô của cả nước dưới thời Tây Sơn và triều Nguyễn, nay là cố đô, một trong những trung tâm văn hoá và du lịch quan trọng của Việt Nam , trải qua quá trình đô thị hoá, vừa mang dấu ấn của một đô thị cổ phương Đông, vừa có đặc trưng của một đô thị mới. Để góp phần định hướng phát triển và tổ chức quản lý vùng đất nầy, một trong những việc cần làm là nên soát xét lại kết quả của quá trình đô thị hóa để lựa chọn những giải pháp quản lý phù hợp.
Trong quá khứ, mảnh đất Phú Xuân - Huế đã được chọn để đóng đô thành của các chúa Nguyễn ở Đàng Trong, rồi đến kinh đô Đại Việt của nhà Tây Sơn Nguyễn Huệ, sau nữa là kinh đô Việt Nam thống nhất dưới thời họ Nguyễn Phúc trị vì và cuối cùng trở thành cố đô từ sau Cách mạng Tháng 8.1945. Huế đã và đang là thành phố Festival - một thành phố lễ hội mang nhiều thành tố văn hóa đặc trưng của Việt Nam theo một quy chế đặc biệt. Để có cái nhìn khách quan về lịch sử, thiết nghĩ, chúng ta hãy điểm lại vài nét quá trình đi lên của thành phố Huế để trở thành đô thị loại I - đô thị đặc biệt hôm nay.
Hội nghị cán bộ Việt Minh mở rộng vào cuối tháng 4 đầu tháng 5/1945 diễn ra trên đầm Cầu Hai đề ra chủ trương lớn để phát triển phong trào cách mạng tỉnh Thừa Thiên Huế, chuẩn bị cùng cả nước khởi nghĩa cướp chính quyền khi có thời cơ. Sau hội nghị, phong trào cách mạng phát triển đều khắp trong toàn tỉnh. Đầu tháng 8, được tin quân đội Nhật bị quân đồng minh đánh bại ở nhiều nơi, nhất là ở Mãn Châu Trung Quốc, Thường vụ Việt Minh dự đoán ngày Nhật theo chân phát xít Đức bị đánh bại không còn xa, đã quyết định đẩy mạnh chuẩn bị khởi nghĩa. Giữa tháng 8 được tin Nhật Hoàng sẵn sàng đầu hàng, Thường vụ Việt Minh chỉ đạo các huyện khởi nghĩa. Sau khi tất cả các huyện phụ cận Huế khởi nghĩa thành công, ngày 20/8 Thường vụ Việt Minh triệu tập 6 huyện bàn quyết định chọn ngày 23.8.1945 là ngày khởi nghĩa giành chính quyền. Cũng ngay chiều ngày 20.8.1945 phái đoàn Trung ương có cụ Hồ Tùng Mậu, anh Nguyễn Duy Trinh và anh Tố Hữu đã đến Huế, vì Huế là thủ đô của chính quyền bù nhìn lúc bấy giờ. Khởi nghĩa ở Huế mang sắc thái đặc biệt có tính chất quốc gia. Ta giành lại chính quyền không phải từ tay một tỉnh trưởng mà là từ triều đình nhà Nguyễn - Bảo Đại ông vua cuối cùng, bên cạnh Bảo Đại lại có cả bộ máy chính quyền Trần Trọng Kim do Nhật lập ra. May mắn thay đoàn phái bộ Trung ương vào kịp thời nên vẫn giữ nguyên ngày khởi nghĩa (23.8.1945). Đêm 20.8.1945 cuộc họp của phái đoàn Trung ương và Thường vụ Tỉnh ủy thông qua kế hoạch khởi nghĩa của tỉnh và cử ra Ủy ban khởi nghĩa gồm có: anh Tố hữu là Chủ tịch đại diện cho Trung ương, tôi làm Phó Chủ tịch (PCT) đại diện cho Đảng bộ và Mặt trận Việt Minh địa phương cùng một số ủy viên: Lê Tự Đồng, Lê Khánh Khang, Hoàng Phương Thảo, Nguyễn Sơn...
Ba mươi năm trước, cùng với lực lượng cách mạng, những người làm Báo Cờ Giải Phóng của Đảng bộ Thừa Thiên Huế sôi nổi chuẩn bị số báo đặc biệt và có mặt trong đoàn quân tiến về giải phóng quê hương. Tháng 10/1974, chúng tôi được tham gia hội nghị Tỉnh ủy mở rộng bàn về đẩy mạnh nhiệm vụ đánh kế hoạch bình định, mở rộng vùng giải phóng nông thôn đồng bằng, phối hợp có hiệu quả với các chiến trường, góp phần giải phóng miền Nam, Thường vụ Tỉnh ủy giao nhiệm vụ cho Báo Cờ Giải Phóng ra số báo đặc biệt, nội dung phong phú, hình thức hấp dẫn để chuyển tải khí thế cách mạng miền Nam và trong tỉnh, đưa mệnh lệnh, lời kêu gọi của Mặt trận Dân tộc Giải phóng Thừa Thiên Huế và các chính sách của Mặt trận đối với vùng giải phóng.
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước vĩ đại của dân tộc, lực lượng an ninh huyện Phú Vang đã nêu cao chủ nghĩa anh hùng cách mạng, với 95 thương binh, 135 liệt sĩ và không có một cán bộ, chiến sĩ nào đầu hàng phản bội, lực lượng an ninh huyện Phú Vang và 4 cán bộ an ninh huyện đã được Đảng, Nhà nước phong tặng danh hiệu cao quý “Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân”.
Trong mọi thời đại Hoàng đế và kẻ sĩ có mối quan hệ đặc biệt. Đó là mối quan hệ giữa người cầm quyền và người trí thức có nhân cách và tài năng. Khi Hoàng đế là minh quân thì thu phục được nhiều kẻ sĩ, khi Hoàng đế là hôn quân thì chỉ có bọn xu nịnh bất tài trục lợi bên mình còn kẻ sĩ bị gạt ra ngoài thậm chí có khi bị giết hại. Lịch sử bao triều đại đã chứng minh điều đó. Mối quan hệ giữa Hoàng đế Quang Trung Nguyễn Huệ và La Sơn Phu tử Nguyễn Thiếp của thế kỷ XVIII là cuộc hội ngộ lớn, mang đến nhiều lợi ích cho quốc gia và có ý nghĩa cho muôn đời. Nguyễn Huệ và Nguyễn Thiếp đều sống trong bối cảnh triều Lê suy tàn, chúa Trịnh lộng hành, chúa Nguyễn mới nổi dậy. Sau gần 300 năm hết nội chiến Lê Mạc đến Trịnh Nguyễn phân tranh đời sống nhân dân vô cùng khốn khổ. Trong bối cảnh đó Nguyễn Huệ cùng anh là Nguyễn Nhạc dựng cờ khởi nghĩa, Nguyễn Thiếp cáo quan về ở ẩn.
Năm 2008 là một năm khá kỳ lạ và đặc biệt của loài người. Nửa năm đầu, cả nhân loại thăng hoa với các chỉ số chi tiêu mà ngay cả các chiến lược gia kinh tế cũng phải bàng hoàng. Nửa năm cuối, quả bóng phát triển, ổn định bị lưỡi dao oan nghiệt của khủng hoảng đâm thủng nhanh đến nỗi hàng ngàn đại gia bị phá sản rồi, vẫn chưa lý giải nổi hai chữ “tại sao”. Bất ổn và đổi thay còn chóng mặt hơn cả sự thay đổi của những đám mây. Không phải ngẫu nhiên mà người Nhật lại chọn từ “thay đổi” (kanji) là từ của năm, vì B. Obama đã chiến thắng đối thủ bằng chính từ này (change)...
Bạn đọc thân mến! Hiệp hội Đo lường Thời gian quốc tế đã quyết định kéo dài thời gian của năm 2008 thêm 1 giây, và chúng ta đã chờ thêm 1 giây để đón chào năm mới. Sau thời khắc 23 giờ 59 phút 59 giây của ngày 31.12.2008, không phải là giây đầu tiên của năm mới mà phải sau thời khắc 23 giờ 59 phút 60 giây cùng ngày, năm 2009 - năm lẻ cuối cùng của thế kỷ 21, mới chính thức bắt đầu. Nhân loại đã có thêm một giây để nhìn lại năm cũ và bước sang năm mới. Và trong một giây thiêng liêng ấy, chắc chắn nhiều ý tưởng sáng tạo đã xuất hiện, nhiều tác phẩm nghệ thuật vừa hoàn tất, âm tiết cuối của câu thơ cuối một bài thơ vừa được nhà thơ viết xong và buông bút mãn nguyện. Cùng với ly rượu vang sóng sánh chúc mừng năm mới được nâng lên, cái đẹp, cái cao cả tiếp tục xuất hiện để phụng sự nhân loại và chắc chắn, những nụ hôn của tình yêu thương đã kéo dài thêm một giây đầy thiêng liêng để dư vị hạnh phúc còn vương mãi trên môi người.