Édouard Glissant - Nhà văn tạp chủng toàn-cầu

16:40 28/04/2011
TRẦN THIỆN ĐẠONếu như Viện Hàn lâm Thụy Điển, đầu tháng mười năm ngoái, rốt cuộc đã trao giải Nobel 2010 cho nhà văn Pêru Mario Vargas Llosa hụt biết bao nhiêu lần trước đó(1), thì nay, Viện không còn có thể vớt vát được nữa.

Nhà văn Édouard Glissant - Ảnh: internet

Không còn có thể vinh danh dầu muộn mằn nhà văn Pháp da màu Édouard Glissant cũng đã liên hồi hụt giải. Nhà văn nobelisable, thường xuyên được nêu danh trong số có cơ đoạt giải này vừa từ trần hôm 03 tháng 02/2011: hiện nay chưa có tiền lệ tặng giải cho các văn gia đã khuất(2). Tiếc thay! Cho Viện Hàn lâm lỡ tàu và nhà văn hụt giải.

Từ bản sắc da màu…

Viện Hàn lâm Thụy Điển hãy còn do dự khi nghĩ tới Édouard Glissant, tên ông thường xuyên nằm trong số nhà văn nobelisable(s) mỗi năm gần đây. Có điều là hào quang tác phong quyết liệt nhưng bất bạo động của ông trong môi trường chánh trị và văn hóa trải dài hơn sáu chục năm tròn đã ít nhiều che trùm trên một sự nghiệp nghệ thuật cũng chẳng kém phần sắc cạnh. Suốt trọn cuộc đời khôn thôi sống động, ông không hề tách rời công trình sáng tạo văn chương ra khỏi mục tiêu mà ông tóm gọn qua hai ý niệm créolisation (tạp chủng) và tout-monde (toàn-cầu).

Édouard Glissant sinh ngày 21 tháng 09/1928 ở thị xã Sainte-Marie, tỉnh 972 - Martinique thuộc quần đảo Antilles của Pháp, nằm trong vùng biển Caribê châu Mĩ. Loại chi tiết vừa kể chẳng phải là không có ảnh hưởng sâu đậm tới thân thế và sự nghiệp của ông. Ngay cả tên họ của ông cũng phần nào báo hiệu thân thế và sự nghiệp này. Là bởi Glissant (glixxăng) là cách đọc đảo ngược tên họ Senglis (xăngglix) của một trong số chủ nông da trắng khai thác thuộc địa ở châu Mĩ bằng mồ hôi, nước mắt, máu thịt của hàng triệu dân châu Phi bị vây ráp, trói ké, quẳng xuống gầm tàu négrier (tàu chở người da đen) băng Đại Tây Dương bắt làm nô lệ kể từ thế kỉ XVI. Bốn trăm năm sau, khi chế độ chiếm hữu và buôn nô lệ da đen lần lượt được bãi bỏ vào giữa thế kỉ XIX, giải phóng tầng lớp nô lệ(3), phải khẩn cấp đặt tên cho các công cụ mới được phục hồi nhân phẩm: “Glissant, nghe cũng hay, nhà văn suy ngẫm, giãi bày. Nhưng còn có biết bao cách khác để gọi chúng tôi. Tiếng tạp chủng thường đặt nhiều tên cho sự vật một cách hồn nhiên. Ăn nói đa âm đa dạng vốn là lối phát biểu bản năng của dân tình chúng tôi”.  

Sau khi mài rách đũng quần trong trường Victor Schoelcher (tương đương thời ấy với các trường Pétrus Ký - Sài Gòn, Quốc Học - Huế và Bưởi - Hà Nội) ở thủ phủ Fort-de-France, ông rời Martinique sang Paris năm 1946. Theo học ngành dân tộc học trong Musée de l’Homme (Viện Bảo tàng Nhân chủng) và lịch sử, triết học ở đại học Sorbonne. Bảo vệ luận án tiến sĩ dưới đề tài Le Discours antillais: le passage de l’oral à l’écrit en Martinique. Essai d’analyse éclatée d’un discours global (Diễn ngôn ở Antilles: từ lời nói tới chữ viết ở Martinique. Cảo luận mở phân tích một khối diễn ngôn).

… qua hoạt động…

Đồng thời với mấy thi phẩm đầu tay Un champ d’iles (Quần đảo bao la - 1953) và La Terre inquiète (Trái đất âu lo - 1954), ông tham gia các phong trào tranh đấu qui tụ giới văn gia, trí thức và nghệ sĩ da màu gốc châu Phi, Antilles, Guyane và Hoa kì. Tranh luận với Léopold Sédar Senghor (1906-2001 - gốc Xênêgal)(4), Aimé Césaire (1913-2008 - gốc Martinique như ông)(5) và Langston Hugues (1902-1967 - gốc Hoa kì). Trong lúc L.S. Senghor và A. Césaire tôn tạo phong thái négritude (bản sắc da màu), xóa bỏ ý nghĩa miệt thị và khinh thường trong tiếng Pháp và tiếng Anh/Mĩ nègre, nigger, negro (mọi da đen, lọ nồi) biến nó thành biểu hiện cho cảm tính tự trọng và tự tin - trong khi L. Hugues và đồng cánh vừa than thân trách phận vừa quyết liệt đảm nhận nguồn gốc châu Phi của mình(6), thì ông cho rằng tinh thần afrocentrism(e) (trở về cội nguồn châu Phi da đen) của họ chỉ là loại mơ tưởng “trở về một cội nguồn đà mai một không còn cứu vãn được nữa”.

Năm 1960, Édouard Glissant kí rõ tên mình trong bản Manifeste des 121 (Kiến nghị của 121 nhà trí thức) do triết gia hiện sinh Jean-Paul Sartre (1905-1980) chủ xướng, đòi quyền trốn lính ở Algérie bấy giờ đang cầm súng nổi dậy giành độc lập. Năm sau, cùng với Paul Niger (1915-1962 - gốc Guadeloupe thuộc Pháp ở quần đảo Antilles như ông), thành lập Front antillo-guyanais pour l’autonomie (Phong trào tự trị Antilles và Guyane), có khuynh hướng đòi độc lập. Phong trào liền bị cấm, ông và đồng cánh thì bị trục xuất ra khỏi Guadeloupe, quản thúc tại gia ở Pháp sáu năm ròng, từ 1959 tới 1965. Trở về quê quán sau đó, thành lập Institut martiniquais d’études (Viện nghiên cứu Martinique) cùng với tập san Acoma (Acoma) đăng tải các công trình nghiên cứu của viện. Đồng thời cũng tiếp tục xây đắp sự nghiệp văn học bằng nhiều tác phẩm để đời.

Với sự nghiệp đa dạng và đa diện này, ông nghiễm nhiên trở thành Giám đốc Tập san Courrier de l’Unesco (Thư mục Unesco) của Liên hiệp quốc kể từ năm 1982. Năm 1989, được bổ nhiệm làm Distinguished University Professor (Giáo sư đại học ưu tú) đại học Louisiana Hoa Kì, chủ trì Trung tâm nghiên cứu Pháp học và Pháp ngữ. Rồi cư ngụ ở New York. Năm 1995, làm Distinguished Professor (Giáo sư ưu tú), chủ nhiệm Khoa Văn học Pháp, Đại học Thành phố New York. Năm 2006, được Tổng thống Pháp bấy giờ giao phó nhiệm vụ thành lập Trung tâm nghiên cứu tình cảnh nô lệ đương đại. Hai năm sau, khi Tổng thống đương nhiệm có xu hướng bài xích dân nhập cư, cùng với nhà văn đồng hương giải Goncourt 1992 Patrick Chamoiseau, thảo bản tuyên ngôn khảng kháng dưới tựa đề Quand les murs tombent, l’identité nationale hors la loi? (Khi biên giới sụp đổ, bản sắc dân tộc trở nên phi pháp chăng?). Trước đó, ông thành lập Institut Tout-Monde (Viện Toàn-cầu), quảng bá “bộ óc muôn hình vạn trạng của quần thể đại chúng trên thế giới”.

... tới tạp chủng và toàn-cầu


Mở mắt chào đời, lớn lên ở Martinique giữa một “quần đảo bao la” (nhan đề tập thơ đầu tiên của ông), nơi đã trải qua một thời gian dài nô lệ, Édouard Glissant sớm dòm xa, nhìn ngó không gian ở phía bên kia chân trời. Nói cách khác, từ thủ phủ Fort-de-France sát vách châu Mĩ, ngụp mình trong môi trường Caribê pha trộn đủ loại màu da, phong hóa và ngôn ngữ, hòn đảo nhỏ chôn nhau cắt rốn của ông, dưới mắt nhà thơ thấu thị như ông, không còn là một khoảng không gian chật hẹp, mà là nơi dễ bề quan sát biến đổi tác động không ngừng trên quả địa cầu. Giúp ông nhìn đón trước rằng thế kỉ XXI sẽ là thế kỉ tạp chủng toàn-cầu, không chỉ về mặt kinh tế, chánh trị, xã hội, mà về chính con người của chúng ta.

Ngay trong các tác phẩm đầu tay, *thi ca như tập Trái đất âu lo (1954 - đụng độ giữa con người chinh phục và con người bị chinh phục), *cảo luận như cuốn Soleil de la conscience (Mặt trời tri thức - 1956 - “Sẽ chẳng còn có nền văn hóa nào mà không pha trộn với các nền văn hóa khác, không có nền văn minh nào ngạo nghễ ngự trị trên đầu các nền văn minh khác, không còn có thi nhân nào mù mắt trước biến động của Lịch sử”, *tiểu thuyết như truyện La Lézarde (Dòng sông quanh co - giải Goncourt 1958 - dân bản xứ Antilles chạm trán với tinh thần thực dân), các ý niệm tạp chủng toàn-cầu đà manh nha, khai mào cho đường hướng hoạt động và nội dung sự nghiệp văn học của ông. Trong bài phỏng vấn nhân dịp xuất bản luận thuyết La Cohée du lamentin (Ủn ỉn loài heo biển - 2005), Èdouard Glissant giải thích và định nghĩa ý niệm tạp chủng toàn-cầu do mình chủ xướng như sau:

“Chúng ta liên hồi sống trong một thế giới khôn thôi đảo lộn, các nền văn minh không ngớt đụng độ với nhau, từng mảng lớn văn hóa sụp đổ xiêu vẹo và trộn lẫn với nhau, những ai hoảng sợ tình thế pha trộn này tự động trở nên quá khích. Tôi gọi nó là chaos-monde, là thế-giới-hỗn-loạn. Các xác tín duy lí không còn hiệu nghiệm nữa, tư tưởng biện chứng đà thất bại, còn tinh thần thực dụng thì chẳng có đủ năng lực thẩm thấu sự việc, cho nên các hệ thống ý thức cổ hủ không làm sao hiểu nổi thế giới ngày nay. Tôi nghĩ rằng chỉ có loại tư tưởng không tin chắc ở quyền lực của mình, loại tư tưởng còn phập phồng run rẩy trong tâm trí, còn lo âu, lưỡng lự, e ngại, hoài nghi, mới nắm bắt được những đảo lộn đang diễn ra hằng ngày. Loại pha trộn, loại tạp chủng.

Thế nào là tạp chủng? Tạp chủng là hình thái pha trộn nghệ thuật, hay pha trộn ngôn ngữ, hậu quả bao giờ cũng bất ngờ, không lường trước được. Một hình thức biến hóa liên tục mà không khiến con người phải mất gốc. Tạp chủng không chỉ áp dụng cho cơ thể mà còn cho văn hóa. Mà văn hóa là những bộ phận hết sức phức tạp hơn cơ thể. Chúng ta có thể biết trước được ít nhiều hậu quả của sự pha trộn, còn hậu quả của sự tạp chủng thì không. Lấy thí dụ các phương ngữ tạp chủng ở vùng Caribê, hay ở nhiều nơi khác, hậu quả của sự tạp chủng hoàn toàn thuộc loại khôn lường, đầy dẫy nhiều tiếng lóng, cách ăn nói, lời lẽ đùa cợt bất ngờ… Tạp chủng tạo nên một nền văn hóa mở và vô cùng phức hợp trên thế giới, và nó xâm chiếm mọi lãnh vực, âm nhạc, nghệ thuật tạo hình, văn học, điện ảnh, ẩm thực, với một tốc độ chóng mặt…”.

Văn nghiệp

Đa dạng về thể loại (thi ca, cảo luận, tiểu thuyết, kịch), đa diện về đề tài (chánh trị, xã hội, văn hóa, lịch sử), với một văn phong *trữ tình trong thi ca, *hiện thực huyền ảo trong tiểu thuyết, *trong sáng trong cảo luận, văn nghiệp trên dưới 40 tác phẩm đã nâng Édouard Glissant lên hàng đầu các nhà văn da màu Pháp ngữ, sánh ngang với những Leopold Sédar Senghor(4) và Aimé Césaire(5). Chúng ta không lấy làm ngạc nhiên mỗi lần nghe thấy ông được xếp vào hàng nobelisable(s), nhưng rồi lại ngỡ ngàng khôn tả nghe tin ông hụt giải.

Cuộc đời lắm khi tỏ ra bất cập nhường ấy. 

Paris, 3-4/02/2011
T.T.Đ
(266/4-11)



------------------

(1)           Xem: Trần Thiện-Đạo, Giải văn chương Nobel 2010 - Mario Vargas Llosa - Nhà văn tái tạo thực tại và Món nợ của Mario Vargas Llosa (Hợp lưu, số 112, tháng 1 & 2 năm 2011).

(2)           Chỉ có một lần duy nhứt không tạo thành tiền lệ vào năm 2004. Xem: Trần Thiện-Đạo, Giải Renaudot 2004 - Phần thưởng cho một di cảo {của Irène Némirovsky, 1903-1942} (E-van, thứ ba 9/11/2004) và Định mạng của Irène Némirovsky (E-van, thứ ba 26/4/2005).

(3)           Xem: Trần Thiện-Đạo, Chứng từ cuộc đời nô lệ (Hợp lưu, số 97, tháng 11 & 12 năm 2007)

(4)           Xem: Pierre Brunel, Jean-René Bourrel, Frédéric Giguet, Léopold Sédar Senghor (Nxb Phụ nữ - 2006).

(5)           Xem: Trần Thiện-Đạo, Một vì sao rụng - Aimé Césaire (1913-2008 - Thi nhơn bản sắc da màu (Hộp lưu,
số 100, tháng 5 & 6 năm 2008; Văn hóa doanh nhân, tháng 07/2008).

(6)           Tiêu biểu tâm thức này là bài thơ Negro (Lọ nồi) của ông:

I am a Negro:                                                          Tôi là một thằng Lọ nồi:
Black as the night is black,                                    Đen như đêm đen,
Black like the depths of my Africa.                         Đen như châu Phi sâu thẳm của mình.
I’ve been a slave:                                                    Tôi đã làm nô lệ:
Caesar told me to keep his door clean.                  Xêza bắt tôi quét dọn cửa nhà.
I brushed the boots of Washington.                       Tôi lau chùi đôi ủng của Washington.
I’ve been a worker:                                                 Tôi đã làm thợ hồ:
Under may hand the pyramids arose.                     Dưới bàn tay tôi tháp đền xây cất.
I made mortar for the Woolworth Building.             Tôi trộn vữa dựng nhà Cao ốc Woolworth.
I’ve been a singer:                                                  Tôi đã làm ca sĩ:
All the way from Africa to Georgia                          Suốt con đường dẫn từ châu Phi tới tận Georgia
I carried my sorrow songs.                                     Tôi không ngừng u buồn ca hát.
I made ragtime.                                                       Tôi hò reo điệu nhạc ragtime.
I’ve been a victim:                                                   Tôi đã làm nạn nhân:
The Belgians cut off my hands in the Congo.         Bọn Bỉ chặt tay tôi ở xứ Cônggô.
They lynch me still in Mississipi.                           Người ta vẫn treo cổ tôi ở Mississipi.
I am a Negro:                                                          Tôi là một thằng Lọ nồi:
Black as the night is black,                                    Đen như đêm đen,
Black as the dephts of my Africa.                           Đen như châu Phi sâu thẳm của mình.

                                                    




Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGUYỄN ĐỨC TÙNGPhân tâm học ra đời trong ánh bình minh của thế kỷ hai mươi. Ảnh hưởng của nó đối với sáng tạo và phê bình văn học khởi đi từ cuốn “Diễn dịch các giấc mơ” của Freud và được nối dài sau đó bởi nhiều công trình của các tác giả khác nhau.

  • CAO HUY THUẦNToàn cầu hóa đang là một xu thế, một hiện tượng rộng lớn bao trùm khắp thế giới, không chỉ về kinh tế mà cả trong lĩnh vực văn hóa và đời sống. Toàn cầu hóa và chống toàn cầu hóa đã trở thành vấn đề thời sự của thế giới. Trong bối cảnh đó, yêu cầu gìn giữ và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc là một đòi hỏi cấp thiết, có tính sống còn của mỗi dân tộc khi phải đối mặt với xu thế toàn cầu hóa, đặc biệt là trên lĩnh vực tư tưởng và văn hóa.Sông Hương xin giới thiệu một phần bài viết của Cao Huy Thuần như một góc nhìn thú vị về những vấn đề gai góc của thời đại.

  • NGUYỄN VĂN DÂN(*)LTS: Hội nghị Lý luận phê bình văn học lần thứ 2 của Hội Nhà văn Việt Nam diễn ra 2 ngày 4 và 5 tháng 10 năm 2006 đã khép lại nhưng âm vang của nó vẫn còn “đồng hiện” theo 2 cực... buồn vui, cao thấp. Song, dù sao nó cũng đã phản ánh đúng thực trạng, đúng “nội tình” của đời sống văn học nước nhà.

  • PHẠM PHÚ PHONGMấy chục năm qua, người đọc biết ông qua những kịch bản thơ, những bài thơ viết về tình bạn, tình yêu; về những cuộc chia tay lên đường ra trận; về đất và người Hà Nội đầy khí thế hoành tráng của tâm thế sử thi; nhưng cũng có khi bí hiểm, mang tâm trạng thế sự buồn cháy lòng của một người sống âm thầm, đơn độc, ít được người khác hiểu mình.

  • HOÀNG NGỌC HIẾN(Đọc Tư- duy tự- do của Phan Huy Đường*)

  • TRẦN HOÀI ANHBáo Văn nghệ trong lời giới thiệu những bài thơ mới nhất của Nguyễn Khoa Điềm số ngày 5/8/2006 cho biết: “Bây giờ ông đã trở về ngôi nhà của cha mẹ ông ở Huế. Tôi chưa bao giờ đến ngôi nhà ấy”. Còn tôi, người viết bài này đã có “cơ may” ở trọ tại ngôi nhà yên bình ấy trong những năm tám mươi của thế kỉ trước khi tôi đang là sinh viên ngữ văn Đại học Sư phạm Huế.

  • NGUYỄN NGỌC THIỆN(Kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà văn Lan Khai (1906-2006)Đầu năm 1939, Vũ Đình Long, chủ Nhà xuất bản Tân Dân có sáng kiến xin giấy phép xuất bản ấn hành tạp chí TAO ĐÀN. Đây là tạp chí chuyên ngành về văn học đầu tiên trong làng báo ở ta trước Cách mạng tháng 8 năm 1945.

  • NGUYỄN TÀI CẨN, PHAN ANH DŨNG1/ Tiến sĩ Đào Thái Tôn vừa cho xuất bản cuốn “Nghiên cứu văn bản Truyện Kiều: bản Liễu Văn Đường 1871”. Chúng tôi thành thực hoan nghênh: hoan nghênh không phải vì trong cuốn sách đó có những chỗ chúng tôi được Tiến sĩ tỏ lời tán đồng, mà ngược lại, chính là vì có rất nhiều chỗ Tiến sĩ tranh luận, bác bỏ ý kiến của chúng tôi.

  • TÔN PHƯƠNG LAN1. Phong Lê là người ham làm việc, làm việc rất cần cù. Anh là người suốt ngày dường như chỉ biết có làm việc, lấy công việc làm niềm vui cho bản thân và gia đình. Anh sống ngăn nắp, nghiêm túc trong công việc nhưng là người ăn uống giản đơn, sinh hoạt tùng tiệm.

  • THỤY KHUÊLGT: “Thụy Khuê là một nhà phê bình văn học Việt Nam sắc sảo ở Pháp” (Trần Đình Sử, Văn học Việt Nam thế kỷ XX, NXBGD Hà Nội, 2005) Bà đã viết về mục tác giả Bùi Giáng và một số tác giả miền Nam trước 1975 cho “Tự điển văn học” bộ mới. Bài viết về Thanh Tâm Tuyền cũng dành cho bộ Từ điển nói trên. Chúng tôi đăng bài viết này để tưởng nhớ nhà thơ Thanh Tâm Tuyền vừa mới qua đời.

  • HỒ THẾ HÀĐồng cảm và sáng tạo (*): Tập phê bình-tiểu luận văn học mới nhất của nhà phê bình nữ Lý Hoài Thu. Tập sách gồm 30 bài viết (chủ yếu là phê bình-tiểu luận và 5 bài trao đổi, phỏng vấn, trả lời phỏng vấn), tập trung vào mảng văn học hiện đại Việt Nam với sự bao quát rộng về đề tài, thể loại và những vấn đề liên quan đến phê bình, lý luận văn học, đời sống văn học từ 1991 đến nay.

  • MINH ĐỨC TRIỀU TÂM ẢNHHôm Tết vừa rồi, anh Đỗ Lai Thúy ghé thăm Huyền Không Sơn Thượng và có tặng tôi một tập sách. Nội dung, anh đã phác thảo chân dung học thuật của 17 nhà nghiên cứu. Công trình thật là công phu, khoa học, nhiều thao tác tư duy, nhiều tầng bậc chiêm nghiệm... hàm tàng một sở học nghiêm túc, đa diện và phong phú.

  • TRÚC THÔNGLTS: Cuộc hội thảo Thơ Huế trong mạch nguồn thơ Việt do Hội Nhà văn TT Huế tổ chức nhân dịp Festival Thơ Huế 2006 đã “truy cập” được nhiều nhà thơ, nhà lý luận- phê bình tham dự.Tiếp theo số tháng 6, trong số tháng 7 này, Sông Hương xin trích đăng thêm một số tham luận và ý kiến về cuộc hội thảo nói trên.

  • PHẠM XUÂN NGUYÊNTrước hết tôi muốn phân định một khái niệm thơ Huế, ít nhất là trong bài viết này của tôi. Thơ Huế là một khái niệm tưởng cụ thể nhưng lại khá mơ hồ. Thế nào là thơ Huế? Có phải đó là thơ viết về Huế và thơ của người Huế viết. Mặc nhiên mọi người đều hiểu thế. Thơ viết về Huế thì có của người gốc Huế, người đang sống ở Huế và người ở khắp mọi nơi.

  • INRASARATham luận Festival Thơ Huế lần 2 tại Huế 05 và 06/6/2006Tràn lan cái giống thơ:Cái giống thơ là sản phẩm dễ gây nhầm lẫn và ngộ nhận. Ngộ nhận nên quá nhiều người làm thơ, nhà nhà làm thơ. Rồi tập thơ được in ra hàng loạt để...tặng. Và khốn thay, không ai đọc cả! Vụ lạm phát thơ được báo động mươi năm qua là có thật. Không thể, và cũng không nên chê trách hiện tượng này. Thử tìm nguyên do.

  • TÂM VĂNĐã hơn hai thế kỷ rồi mà nay đọc bài “Lập học chiếu” (Chiếu chỉ thành lập trường học) của Ngô Thời Nhậm vẫn nóng lên như những dòng thời sự.

  • HỒ THẾ HÀVới điểm nhìn ngược chiều từ khởi đầu thế kỷ XXI (2006) hướng về cội nguồn khai sinh vùng đất Thuận Hoá - Phú Xuân - Huế (1306), chúng ta thấy vùng đất này đã có 700 lịch sử thăng trầm, vinh quang và bi tráng.

  • NGUYỄN ĐỨC TÙNGVô thức là những hoạt động tinh thần mà chúng ta không thể nhận thức ra được. Trong tác phẩm nổi tiếng của mình, Diễn dịch các giấc mơ, Freud lần đầu tiên đề nghị khái niệm vô thức (unconscious) để phân biệt với ý thức (conscious) và tiềm thức (preconscious), sau này gọi là lý thuyết topo.

  • VĂN CÔNG HÙNGKính thưa quý vị, tôi phải xin phép nói ngay là những phát biểu của tôi vô cùng cảm tính và chả có một hệ thống gì hết, trong khi trước mặt tôi đây đều là những người lừng danh về cảm nhận, nhận xét, đúc kết, rất giỏi tìm ra những vấn đề, những quy luật của thơ.