Đồng vọng những chân trời xanh thẳm

09:45 10/05/2019

PHAN TRỌNG HOÀNG LINH 

Chân trời là giới hạn của tầm mắt, dẫn đến ảo tượng về sự giao nối giữa trời và đất. Do vậy, chân trời vừa hữu hạn, vừa vô hạn.

Lấy câu ngạn ngữ Do Thái: “Hạnh phúc cho ai nhìn thấy những chân trời” làm lời đề từ cho tập tiểu luận phê bình văn học vừa ra mắt cuối năm 2018 với nhan đề Những chân trời xanh thẳm (Nxb. Hội Nhà văn, 2018), dường như, nhà nghiên cứu Phạm Phú Phong đồng thời lập ngôn cho sứ mệnh của phê bình văn học theo quan niệm của ông: tìm thấy chân trời của những chủ thể đã sáng tạo nên giá trị văn chương, cũng là người góp phần mở rộng và đẩy xa đến vô tận những chân trời văn hóa.

Cuốn sách là hợp tuyển những tiểu luận được viết trong khoảng 10 năm trở lại đây về các tác giả có liên quan đến đời sống văn học, chủ yếu trên lĩnh vực sáng tác, như Phan Khôi, Hải Triều, Hàn Mặc Tử, Nguyễn Hiến Lê, Bình Nguyên Lộc, Vĩnh Mai, Phạm Thế Ngũ, Nguyễn Văn Bổng, Võ Hồng, Đào Xuân Quý, Sơn Nam, Nguyễn Minh Châu, Phan Tứ, Nguyên Ngọc, Trần Vàng Sao, Tô Nhuận Vỹ, Lê Văn Ngăn, Thanh Quế, Thái Bá Lợi và Lưu Quang Vũ.

Với khí chất hào sảng, Phạm Phú Phong là người giao tế rộng rãi, luôn chú tâm tìm hiểu hầu như mọi sự kiện và con người văn học quanh ông. Vì thế, không lạ khi trong số 20 tác giả được ông chắp bút, có đến 16 tác giả sinh ra, trưởng thành và hoạt động mật thiết trên địa hạt miền Trung. Ông thường viết rất hay về những tác giả mà ông thật sự gắn bó, không chỉ trên tác phẩm mà còn trong những sự kiện cuộc đời. Bởi lẽ, phê bình văn học của ông là loại phê bình kết hợp vẽ chân dung. Mọi khía cạnh được mất của văn nhân sóng đôi với hành trạng tiểu sử. Trang viết đầy ắp tư liệu, đọc cũng hấp dẫn như thuở được nghe ông giảng trên lớp, hay được nghe kể những lúc hầu ông cuộc rượu. Nhưng đặc sắc trong số đó không phải tư liệu sách vở, mà là thứ tư liệu do chính ông trải nghiệm qua những đoạn sống với văn học cùng thời. Người viết hiếm khi tập trung vào một tác phẩm cụ thể mà luôn hướng đến khái quát mang tính quá trình. Vậy nên, đến cuối, mỗi tiểu luận thành công của ông không chỉ thấu thị một văn nghiệp mà còn khắc đạt một nhân hình. Tôi đã cảm thấy thú vị khi nhận thấy quả thực ông rất mê phác thảo chân dung. Đôi chỗ, ông thậm chí dành riêng đến nửa trang giấy cho những đoạn trữ tình ngoại đề, tựa như: “Sơn Nam là “nhà văn đi chân đất” theo đúng nghĩa của từ này. Với dáng người thấp nhỏ như núi của phương Nam nhưng rắn rỏi, gân guốc. Gương mặt ông khắc khổ, hun hút như được chạm khắc bởi nỗi niềm tù túng của lịch sử có nét hao hao gương mặt của tượng đá Phù Nam. Đôi mắt ông vừa xuyên suốt, vừa u u minh minh, vừa sáng quắc lại vừa lờ đờ, hệt như đôi mắt của quá khứ, nhưng nụ cười hiền lành luôn gắn ở trên môi và đong đầy trong mắt. Ông cứ thế mà đi bộ hơn bảy mươi năm trên những làng quê, những vỉa hè quanh co mỗi sáng cho đến tối mịt mỗi ngày, và, ông thong thả đi vào đáy sâu hun hút của lòng người, đi vào tòa lâu đài lộng lẫy của văn chương, bằng chính hơi thở ấm áp và giọng điệu tự nhiên như tiếng vọng từ trái tim mình” (tr.202 - 203). Đây cũng là những đoạn phát tiết hai phẩm chất nổi bật nhất của ngòi bút phê bình: tài hoa và tràn đầy cảm xúc.

Tôi nhận ra điểm thú vị nữa: Phạm Phú Phong vốn là người rất mực tài hoa trong đặt tiêu đề bài viết, nên với khẩu vị của tôi, bài nào của ông phát lộ được tiêu chí này, đó thường là bài viết hay: “Vĩnh Mai - con chim Phượng Hoàng đã bay qua hòn núi bạc”, “Võ Hồng - người đi đến cuối chân trời không biết mỏi”, “Đào Xuân Quý - người đưa thơ đi hóng gió sông Hồng”, “Nguyễn Minh Châu bên chân trời vỏ đạn”, “Có một đất nước của Trần Vàng Sao”, “Tô Nhuận Vỹ - có một chân trời phía ấy”, “Lê Văn Ngăn - thơ như chiếc bóng cuối chân trời”, “Thanh Quế - người đi vé đứng trên chuyến tàu văn xuôi”,… Hay, tất nhiên không chỉ ở tiêu đề, mà quan trọng còn ở những phát hiện độc sáng. Chẳng hạn, về truyện của Thanh Quế, ông cho rằng tác giả này “có biệt tài tạo nên độ sâu của suy ngẫm, sự lắng đọng của cảm xúc. Bởi lẽ, trước khi đến với văn xuôi, ông là nhà thơ. Truyện của ông là truyện của một nhà thơ. Chất thơ bàng bạc trong các truyện, từ cách chọn lựa đề tài, chủ đề đến kết cấu, diễn biến truyện và tính cách nhân vật” (tr.324). Về thơ của Đào Xuân Quý, ông nhận xét: “Điểm mạnh và là cái riêng của ông là gài cảm xúc lên từng câu thơ rải đều, đọc toàn bài mới thấy được những tình cảm trọn vẹn” (tr.173). Những trang viết giàu cảm xúc nhất của ông, và hay nhất với tôi, là những trang về các nhà văn, nhà thơ từng tham gia phong trào sinh viên tranh đấu ở các đô thị miền Nam trước 1975. Phạm Phú Phong là tuýp người hoài niệm, có trí nhớ phi thường mọi thứ thuộc về quá khứ. Hiếm ai nhớ nằm lòng mộ của danh nhân và năng lui tới mộ của người thân, của những người mình từng quen biết như ông. Ghét ai thì xúc đổ đi, nhưng đi được với ai đến tận cuối đời thì người ấy với ông mãi không khuất bóng. Ông luôn nặng lòng với những người anh, người bạn cùng chung một thời tranh đấu, nhưng vì cá tính hoặc vì số phận mà đường đời đứt gãy. Sức hấp dẫn trong trang viết của ông ở đó, và nỗi buồn phảng phất suốt đời ông cũng ở đó.

Trong tiểu luận về Phan Khôi, khi liệt kê những thứ làm nên khí chất “nhà văn xứ Quảng”, Phạm Phú Phong đặc biệt chú ý phẩm tính “Quảng Nam hay cãi”. Chưa thấy ông tranh cãi kịch liệt với ai bao giờ, nhưng sự thẳng thắn và kiên định trong chính kiến học thuật của ông là không thể phủ nhận, cả khi khen lẫn lúc chê. Chiếu theo câu danh ngôn của R. Gamzatov mà ông vẫn yêu thích: “Chỉ có thể tách con người ra khỏi quê hương, chứ không thể tách quê hương ra khỏi con người”, thì đó phải chăng cũng là một nét cá tính mạnh của người đàn ông xứ Quảng. Dành rất nhiều cảm tình cho nhân cách và sáng tác của Tô Nhuận Vỹ, nhưng ông cũng thẳng thắn chỉ ra: “Điều đáng ghi nhận về bước chuyển trên chặng đường sáng tác của Tô Nhuận Vỹ lại là nhược điểm về thể loại, thể hiện rõ trong hai truyện ngắn Bạn bè tôi Làng thức. Đó là sự kéo dài, tản mạn nhồi nhét một dung lượng hiện thực không phù hợp và thiếu chọn lựa, kết cấu truyện không chặt chẽ, cho thấy nhu cầu bức thiết phải đổi thay; là dấu hiệu/ gạch nối chuyển từ truyện ngắn sang tiểu thuyết” (tr.286). Soi sáng hạn chế của tác phẩm từ góc độ thể loại để khẳng định một nhu cầu dịch chuyển bút pháp ở cấp độ vĩ mô và chứng minh thuyết phục thông qua thành tựu của những thể nghiệm sáng tạo về sau của chính tác giả, nhà phê bình đã khiến luận điểm phê bình trở nên dễ chịu và có ý nghĩa xây dựng hơn rất nhiều. Đàn ông Quảng Nam còn hay nói ngược. Có một danh nhân văn hóa đang bị đám đông chụp mũ, vùi dập đủ đường, Phạm Phú Phong lại viết cả tiểu luận gần 30 trang để xác quyết vị ấy là nhà văn [hóa] yêu nước. Khắp nơi từ kỷ yếu hội thảo đến tạp chí văn hóa văn nghệ không nơi nào dám đăng, ông cười nửa miệng lấp ló cái răng sún mà rằng: “Thì tui đăng vô sách của tui!” Nói ngược, mà có lý. Trong tiểu luận ấy, tôi tâm đắc với nhà phê bình về phát hiện mang tên “thi pháp bút danh”: “Người cầm bút chân chính, luôn tự hào về tên tuổi của mình. Phải từ bỏ bút danh từng nổi tiếng của mình để chọn một bút danh mới cũng là hành động yêu nước và văn hóa chọn bút danh cũng là văn hóa yêu nước” (tr. 271). Gần đây, nhiều người có xu thế phủ nhận giá trị nghệ thuật của văn chương cách mạng, Phạm Phú Phong không hoàn toàn phản đối, nhưng ông lưu ý: “Đừng ai có ảo tưởng rằng có thể nói thay cho mọi thời. Mỗi thời đại có một cách biểu tỏ riêng và sản sinh ra một kiểu nhà thơ riêng của thời đại mình” (tr.100). Một giá trị văn hóa chỉ có thể xác định dựa trên đặc trưng của một thời đại văn hóa.

Trong cuốn sách này, số bài về nhà văn nhiều hơn số bài về nhà thơ. Phạm Phú Phong không bao giờ ngâm thơ. Nghe đồn, ông còn viết tiểu thuyết mà không công bố. Ông cũng hay chọc giỡn thơ của người bạn đồng nghiệp thân thiết. Nhưng không biết ông có phiền lòng khi tôi nói điều này, ông viết về thơ hay hơn viết về văn xuôi. Không ngâm thơ, có lẽ, với ông, thơ là để ngẫm, trong thế giới tinh thần.

Ông bảo với lũ trẻ chúng tôi, đây là cuốn sách cuối cùng. Tôi không tin. Sức khỏe phục hồi tốt, ông vẫn đang “chiến đấu” miệt mài. Nhà phê bình Phạm Phú Phong sẽ tiếp tục tìm thấy hạnh phúc nơi những chân trời xanh thẳm.

P.T.H.L  
(SHSDB32/03-2019)



 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • HỒ THẾ HÀSerenade của Peter Kihlgard là một truyện ngắn có cấu trúc hiện đại. Trước hết là ở nghệ thuật ngôn từ và điểm nhìn văn bản.

  • BỬU NAM Hình thức lạ lùng gây tò mòTrước hết về mặt hình thức, tiểu thuyết khêu gợi sự tò mò ở người đọc với cách bố trí các tiêu đề in hoa, dày đặc đến hàng trăm suốt tác phẩm, xen lẫn các tiêu đề bằng tiếng Anh “I have been calling for more than an hour... But It's me”...

  • NHỤY NGUYÊN

    Sự đặc biệt của dòng thơ hậu chiến là luôn luôn khuấy động trong cái mênh mông vô chừng tưởng đã lắng xuống những vỉa quặng lấp lánh sau 30 năm đằng đẵng.

  • PHẠM QUÝ VINH Sau khi lên nắm chính quyền ở miền Nam Việt Nam, Ngô Đình Diệm đã thi hành một chính sách đối nội hết sức phản động. Chính quyền Ngô Đình Diệm đã sử dụng nhiều thủ đoạn nham hiểm nhằm khủng bố những người kháng chiến, những người yêu nước.

  • VŨ NGỌC KHÁNHLTS: Ngày 17-11-2007, tại Văn miếu Quốc tử giám Hà Nội, Trung tâm Minh Triết Việt đã tổ chức Lễ tưởng niệm các nhà giáo Đông Kinh Nghĩa Thục. Giới trí thức học thuật của Hà Nội, nhiều thanh niên, sinh viên và hậu duệ của một số nhà Đông Kinh Nghĩa Thục (ĐKNT) đã đến dự.

  • MAI VĂN HOAN     Nhà xuất bản Văn học vừa ấn hành tập thơ Cõi lặng của Nguyễn Khoa Điềm. Cõi lặng gồm 56 bài, đa phần được viết sau khi tác giả nghỉ hưu. Điều đó cũng là lẽ thường. Các nhà thơ như Nguyễn Trãi, Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Khuyến... đều như thế cả. Khi đương chức họ bận trăm công nghìn việc. Phải đến lúc nghỉ hưu họ mới sống thoải mái hơn, dành nhiều thời gian cho thơ hơn. Đọc Cõi lặng ta mới thấu hiểu tâm trạng của nhà thơ, mới nghe được nhịp đập của một trái tim nhiều trăn trở.

  • HỒNG NHU“Trường đại học của tôi” là cuốn sách thứ 4 của Nguyễn Nguyên An (tức Nguyễn Văn Vinh) trình bạn đọc trong khoảng mười năm trở lại đây. Ba cuốn trước là truyện ngắn, cuốn này là truyện dài.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊChỉ mới qua hai tác phẩm “Báu vật của đời”(NXB Văn nghệ TPHCM, 2001) và “Đàn hương hình”(NXB Phụ nữ, 2002), Mạc Ngôn - nhà văn “hạng nhất” thuộc Cục Chính trị Bộ Tổng Tham mưu Quân giải phóng Nhân dân Trung Quốc - đã trở nên nổi tiếng ở Việt Nam, thậm chí đã vượt lên cả những “ngôi sao” quen thuộc như Giả Bình Ao, Trương Hiền Lượng, Vương Mông... và cả nhà văn Cao Hành Kiện (Noben 2001).

  • ĐỖ XUÂN NGÂNTôi hân hạnh được đọc tác phẩm Đời hoa, tập tản văn của nhà văn Nguyễn Khắc Phê do Nhà xuất bản Hội Nhà văn ấn hành 1999.

  • NGUYỄN QUANG HÀ(Đọc Lãng Đãng Mây Trời của Thanh Nhơn - NXB Thuận Hoá - năm 2001)Gấp tập thơ "Lãng đãng mây trời" lại, tôi như thấy dưới mái tóc bồng bềnh trong gió của ông là cặp mắt nhìn xa xăm, phiêu diêu, và quanh đâu đây là hương rượu nếp thơm nồng toả ra từ vành môi tủm tỉm cười của ông.

  • HOÀNG BÌNH THI (Đọc thơ HÀ MINH ĐỨC)Trong cơn mưa đầu mùa tầm tã của xứ Huế, tôi đọc lại những bài thơ của giáo sư Hà Minh Đức với một nỗi buồn riêng. Một chút ngạc nhiên mà chẳng ngạc nhiên chút nào, khi song hành với sự uyên bác trong học thuật là một tâm hồn nhạy cảm và tinh tế vô cùng.

  • LÊ THIẾU NHƠN(Tản văn và bình văn của nhà văn - nhà báo Trần Hữu Lục)Một cuốn sách tập hợp những bài báo của nhà văn Trần Hữu Lục sau nhiều năm anh đồng hành với bè bạn văn nghệ.

  • HOÀNG KIM ĐÁNGÔng nhà văn Thổ Nhĩ Kỳ này là một trong những nhà văn châm biếm đứng hàng đầu thế giới. Hai mươi năm trước, ông đã đến Việt . Sở dĩ tôi khẳng định chắc chắn như vậy, bởi tôi có trong tay dòng bút tích ghi rõ năm tháng và chữ ký của tác giả; thậm chí còn chụp ảnh kỷ niệm với ông nữa. Tấm ảnh ấy, những dòng bút tích ấy, hiện còn lưu giữ trong cuốn truyện "NHỮNG NGƯỜI THÍCH ĐÙA", sách đó Nhà xuất bản Tác Phẩm Mới của Hội Nhà văn Việt Nam xuất bản lần thứ nhất.

  • HỒ THẾ HÀ(Đọc Cho từng ánh lửa, tập thơ của Hải Trung, NXB Thuận Hoá - Huế, 1999)Sự hiện diện của thơ Hải Trung trong đội ngũ những người sáng tác trẻ ở Huế là một niềm vui sau nhiều năm lặng lẽ âu lo của nhiều người về thế hệ làm thơ kế cận của xứ sở được mệnh danh là giàu mơ mộng thi ca này.

  • NGUYỄN XUÂN HOÀNG(Đọc tập truyện "Ngôi nhà hoang bí ẩn" của Phan Văn Lợi)Tôi đọc mê mải tập truyện đầu tay của tác giả Phan Văn Lợi. Cái tựa "Ngôi nhà hoang bí ẩn" gợi trong lòng người đọc một câu hỏi ban đầu: Cuốn sách viết về cái gì đây? Càng đọc, càng bị cuốn hút khi cùng anh trở lại miền ký ức, để đi qua những năm tháng chiến tranh khốc liệt.

  • LÊ MỸ ÝSau một loạt tác phẩm và tác giả được giới thiệu trên nhiều lĩnh vực tôn giáo, triết học, văn hoá, khoa học và nghệ thuật để làm tư liệu nghiên cứu và tham khảo, trong quý một năm nay, Nhà xuất bản Văn học lại tiếp tục cho ra mắt bộ sách lớn:"Krishnamurti - cuộc đời và tư tưởng" do Nguyễn Ước chuyển ngữ. Đây là một bộ sách công phu và được nhiều độc giả chờ đợi đón đọc.

  • VĂN CẦM HẢI       (Nằm nghiêng - Thơ- Nxb Hội Nhà văn 5/2002)Trên đất Thư "viết buồn thành mưa". Dưới trời Thư "viết buồn thành gió". Giữa đời Thư "viết nỗi buồn sống".

  • TRẦN THUỲ MAIThơ Ngàn Thương bàng bạc một nỗi quan hoài. Trong thơ anh, ta luôn gặp một vẻ quyến luyến ngậm ngùi, đúng như ấn tượng từ cái bút danh của tác giả: Ngàn Thương.

  • NGUYỄN TRỌNG TẠOLTS: Vậy là đã đúng một chu kì World Cup, nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường bị “cải bệnh hoàn đồng” và phải tập ăn tập nói, tập đi tập đứng lại từ đầu. Dù vậy, anh vẫn viết được và viết hay như trước.Trong dịp Festival Huế 2002, đã diễn ra một cuộc hội thảo văn học về Hoàng Phủ Ngọc Tường nhân bộ tuyển tập của anh được Công ty Văn hóa Phương ấn hành.Sông Hương xin trân trọng giới thiệu một số ý kiến đã thành văn được trình bày trong hội thảo đó.

  • NGUYỄN THIỀN NGHIHai chữ "Trăng lạnh" trắng trên nền bìa màu lam do tác giả tự trình bày bềnh bồng một chút tôi bằng những bài thơ tự sự của mình.