Đồng đội

10:17 14/01/2023

THANH TÙNG

Thân yêu tặng đồng đội nhân kỷ niệm 50 năm ngày thành lập Sư đoàn

Minh họa: Ngô Lan Hương

Hoàn thành chương trình huấn luyện tân binh, Quang Thanh, Ngọc Sơn, Phong Thủy cùng chuyển về đơn vị chiến đấu. Không chỉ ở một đại đội mà cả ba được biên chế về cùng một tiểu đội. Sở dĩ “ba eng tam” bọn họ được dồn “vô một rọ” là do cả ba đều học xong năm thứ hai đại học sư phạm nên Ban Quân lực bố trí về đơn vị trinh sát kỹ thuật. Ông Tô Tiến Phúc, trợ lí Ban Cán bộ, hay nói sư đoàn ta là “Anh cả đỏ” của quân đoàn, và thường gọi cánh lính sinh viên ra trận là những hạt giống đỏ. Anh em trong tiểu đội, trung đội, và cả đại đội, vẫn thường gọi họ là ba chàng ngự lâm pháo thủ.

Bộ ba ấy gộp lại như một bộ bách khoa toàn thư của đại đội. Giờ nghỉ giải lao trên thao trường, lúc lao động, kể cả khi chui vào màn rồi họ vẫn “nổ” đôm đốp, không ai chịu ai. Chuyện ba chàng ngự lâm hay tranh cãi, hay phản biện, kể cả tếu táo, bông đùa, đồng đội cùng một doanh trại vẫn gọi đó là món ăn tinh thần cực ngon. Những đêm hành quân anh em cùng đội hình thường xúi họ kể chuyện, hoặc cãi nhau, cho khỏi buồn ngủ và nhẹ vai nhẹ chân. Quang Thanh là dân khoa sinh nhưng lại hay giở giọng triết lí nhiều hơn là biến đổi gen và giải phẫu sinh lí. Anh chàng có cái sổ tay bỏ lọt túi áo, gặp ai cũng hỏi ngày sinh tháng đẻ, ghi ghi chép chép, và đối chứng. Thì ra anh ta mê tử vi từ khi mới học hết năm thứ nhất. Nhờ lính chiến ngày ấy “đông như quân Nguyên”, và sau này hành nghề dạy anh ta tiếp cận biết bao nhiêu là thế hệ học sinh, đặc biệt là học sinh lớp anh chủ nhiệm, nên lại càng có nhiều cơ hội để mày mò, chiêm nghiệm, tìm xác suất… Đến khi về hưu lại có thêm nghề xem tử vi, dịch học, phong thủy địa lí đủ cả. Cuộc đời Quang Thanh đúng là “học, học nữa, học mãi” và kết thúc có hậu. Lính chiến trở về lành lặn, không bị nhiễm da cam, ra trường giỏi chuyên môn, biết làm kinh tế, công thành danh toại.

Ngọc Sơn học văn, lại giỏi nhớ, thơ Tố Hữu, thơ của Chủ tịch Hồ Chí Minh cho đến Thế Lữ, Xuân Diệu, Tế Hanh… anh đọc vanh vách, vận dụng vào ngữ cảnh rất chuẩn. Nói xách mé đồng đội, kể cả chỉ huy, cũng rất hay. Ấy thế mà lại nhát gái. Đi lấy củi gặp em thanh niên xung phong cùng quê; đi địa hình nghỉ nhờ binh trạm bộ đội Binh đoàn Trường Sơn, lại nhờ vả mấy cô bộ đội nấu cơm mấy ngày liền mà chỉ trả công bằng bài thơ báo tường. Thỉnh thoảng có mấy em tìm về đơn vị thăm nhưng Sơn “nổ” cứ im thin thít, chẳng làm ăn được gì cả, lại bị anh chàng “buôn vua” trong đại đội phỗng tay trên. Rất may là chưa khi nào Sơn bị “đổ vỏ”. Quang Thanh hồi ấy rất mê thơ. Đọc thơ bí ở đâu đều được Ngọc Sơn gỡ ngay lập tức. Quang Thanh rất thích bài “Đồng chí” của Chính Hữu. Đêm ngủ ở lán trong rừng Quang Thanh nghêu ngao đọc: “Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỷ…”. Tập bắn ban đêm lại say sưa đọc: “Đêm nay rừng hoang sương muối/ Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới/ Đầu súng trăng treo”…

Phong Thủy số khổ, việc gì khó cũng đến phần, nên Quang Thanh gọi anh là Phong  Ba. Thủy học sử nên rất khoái cụ Võ Nguyên Giáp, xem cụ là thần tượng. Bởi thế mà Quang Thanh hay xỏ xiên Ngọc Sơn: Học văn là vất. Muốn làm chính trị thì phải có tư duy sử học… Phong Thủy khổ từ trong chiến trận, và đau đớn còn gấp vạn lần hơn trong những ngày đất nước đã hòa bình. Trong ba chàng sinh viên ra trận của đơn vị tôi ngày ấy chỉ Thủy là có một mối tình mang theo. Chúng tôi thường được nghe nhạc hiệu đoán chương trình. Nghe Thủy khe khẽ hát: Cửa sổ hai nhà cuối phố… Anh ở đầu sông em cuối sông… Ngôi sao như nhớ ai trong những đêm không ngủ… Ngôi sao như xuống thấp cho ta gần nhau hơn…, là cả trung đội im phăng phắc, rất chi là đồng cảm và thương Thủy vô cùng.

Vào tới Quảng Nam, Thủy bị dính bom na pan bỏng nặng nửa người, từ vùng bụng lên đầu. Dù được chuyển về tuyến sau và ra Bắc điều trị nhưng y thuật thời ấy chưa có giải phẫu thẩm mĩ nên chỉ cứu được sinh mạng anh. Sau 5 lần phẫu thuật bạn bè chỉ nhận ra Thủy nhờ ngôn ngữ và cử chỉ. Cảm nhận được nỗi đau của bố mẹ, người thân trong ngày trở về nên Thủy đã giấu biệt tung tích, không dám viết thư cho ai cả. Ở trại thương binh được một năm thì chiến tranh kết thúc, đất nước hòa bình, thống nhất, Thủy không dám về quê. Nhờ một đồng đội cũ giới thiệu, Thủy được nhận làm một chân kiểm lâm ở ngay huyện nhà. Thủy năn nỉ từng người trong đơn vị công tác cho mình được giấu kín thân phận. Vì anh không muốn những người thân yêu phải đau đớn khi bắt gặp gương mặt dị dạng của mình. Anh xung phong làm nhiệm vụ gác cửa rừng và ở lại giữ lán, cốt là để không bị ai phát hiện ra mình. Từ cái lán bên bờ suối vắng giữa cánh rừng già, ngoài thú vui câu cá, Thủy bắt đầu viết hồi ký và làm thơ với bút danh Hoài Hương. Thi thoảng anh dạy kèm thằng Tèo, thằng bé mồ côi cả cha lẫn mẹ, đang ở với ông nội là lớp người cổ lai hi trong cái xóm nhỏ ngoài vùng đệm. Ngoài đồng nghiệp giữ rừng, duy chỉ có thằng Tèo là bạn chí cốt của Thủy.

*

Hà Thị Thanh Hương và Hồ Phong Thủy là đôi bạn ngày xưa học chung trường huyện. Thủy đi học đại học thì Hương đi học lớp 10 cộng 3 tháng đào tạo cấp tốc giáo viên cấp 1. Hương mất liên lạc với Thủy từ khi anh vào chiến trường. Trước ngày nhập ngũ, do chiến tranh ác liệt nên Thủy không đủ thời gian về thăm nhà. Ngày anh ra trận không có cô bé nhà bên đưa tiễn, chỉ có hương thầm theo mãi bước quân hành. Sau chiến tranh, vô vọng tin tức của người yêu, Hương xin về quê Thủy dạy học những mong nhận được tin của anh thông qua gia đình. Chiều thứ 7 mỗi tuần Hương lại cuốc bộ gần 10 cây số đường rừng, vượt sông lên nhà Thủy “làm dâu”. Năm qua đi, tháng qua đi Thủy vẫn biệt vô âm tín trong nỗi khắc khoải, chờ mong của cả gia đình, của Hương. Trong khi đó Quang Thanh và Ngọc Sơn đều trở về trường đại học tiếp tục học hai năm cuối. Ra trường Thanh và Sơn hạ quyết tâm đi tìm Thủy. Họ vẫn tin là Thủy vẫn còn ẩn khuất ở đâu đó. Còn Quang Thanh và Ngọc Sơn thì tình cờ đọc được chùm thơ ba bài trên báo Nông Lâm. Nghe giọng thơ, lấy trong ý tứ mà suy, họ có linh cảm tác giả chính là người đồng đội cùng tổ ba người năm xưa. Đặc biệt là cái bút danh Hoài Hương!

Thanh và Sơn cùng nhau đến tòa soạn báo Nông Lâm hỏi thông tin về tác giả Hoài Hương. Cả biên tập viên văn hóa văn nghệ và thư ký tòa soạn đều lắc đầu vì tác giả chưa một lần diện kiến. Chùm thơ được gửi đến tòa soạn bằng đường bưu điện, không ghi địa chỉ người gửi. Theo chỉ dẫn Thanh và Sơn xuống phòng Trị sự ở tầng trệt nhờ cô văn thư dò tìm địa chỉ của tác giả Hoài Hương. Cô văn thư cũng chào thua vì kiểm tra sổ ghi bài đến cũng không có địa chỉ tác giả. Ơn trời, thầy giáo dạy văn Ngọc Sơn vẫn còn nhớ chút ít nghiệp vụ trinh sát. Anh năn nỉ cô văn thư cố lục tìm trong đống phong bì cũ. Nếu có sẽ lần theo dấu bưu điện… Cảm động trước tấm lòng đồng đội cô văn thư hứa: “Em sẽ cố gắng. Nhưng hy vọng rất mong manh vì thư đến cách đây đã 2 tháng 20 ngày. Hẹn hai anh sáng mai trở lại, may gì…”.

7 giờ 30 sáng hôm sau Thanh và Sơn trở lại tòa soạn báo. Thấy nét mặt tươi roi rói của cô văn thư, hai chàng ngự lâm mừng hơn lượm được đá đỏ. Cô văn thư liền một hơi: Em mất một đêm trắng các anh ơi. May quá. Nhờ có kế hoạch nhỏ của các cháu trong nhà mỗi tháng em gom được một bao báo cũ, tài liệu thanh lí, và cả phong bì. May (lại may) mà chưa đến ngày các cháu nộp cho nhà trường… Sơn vẫn bản tính hay nổ như thời ở lính nên quên cả lời cám ơn ân nhân của mình. Anh khoái chí nổ: Tuyệt vời. Kế hoạch nhỏ mà làm được việc lớn, rất lớn. Chính xác hơn là rất vĩ đại…

Theo dấu bưu điện trên chiếc phong bì, hai chàng ngự lâm cưỡi con ngựa chiến lên huyện Nghĩa Tân. Lê la hết Phòng Văn hóa Thông tin đến các câu lạc bộ thơ ca hò vè, tất cả đều nhận được những cái lắc đầu, những câu đại loại: Cảm động quá, nhưng… rất lấy làm tiếc. Trên đường về lại thành phố hai chàng ngự lâm vừa đi vừa lên kế hoạch tác chiến: Để bảo toàn sức người sức của, vì “cuộc chiến đấu” còn rất lâu dài và gian khổ, từ nay phân công nhau bám toà soạn báo Nông Lâm để mật phục tác giả Hoài Hương khi đến nhận nhuận bút. Tưởng là cao kiến, nhưng rồi mất một tháng trời tròn vẫn không thấy Hoài Hương đến nhận nhuận bút và báo biếu. Ngược lại tòa soạn tiếp tục nhận được thêm hai chùm thơ của Hoài Hương, cũng qua đường bưu điện và vẫn không ghi địa chỉ người gửi.

Quang Thanh phán đoán: Căn cứ nội dung bài “Rừng khát” và bài “Lời tự tình của loài chim” rất có thể tác giả đang công tác trong ngành lâm nghiệp? Cụ thể hơn, đang làm nhiệm vụ giữ rừng, hoặc đang làm dự án trồng rừng. Vậy thì phải trở lại Nghĩa Tân thôi. Qua nhiều phép sàng lọc, với nhiều cuộc tiếp xúc, cuối cùng đã có người lên tiếng. Đó là ông Hạt trưởng Hạt Kiểm lâm Nghĩa Tân. Ông Hạt trưởng đã bội ước với Thủy và đích thân dẫn hai chàng ngự lâm lên một cánh rừng phòng hộ đầu nguồn sông Con, cách trung tâm huyện khoảng 20km. Ba chàng ngự lâm pháo thủ đã vỡ òa cảm xúc. Tôi có cảm giác lúc đó mà có lửa thì cả ba sẽ cùng nhảy vào để thể hiện tình bạn cảm động, tình đồng đội thiêng liêng của những người lính đã cùng trưởng thành trên đất lửa Quảng Bình và trên những chiến trường đầy khói lửa đạn bom. Vì không có lửa nên họ đã nhảy tùm xuống dòng suối trong mát lạnh như muốn ôn lại một thời dựng lán ở trong rừng Khe Bang, Khe Rợn, Rào Trù, Rào Đá.

*

Thủy kể. Mỗi tuần mình xuống núi một đêm, lẻn về nhà, nấp trong bóng tối như một tên trộm để lén nhìn bố mẹ và các em. Cứ y như ngày trước đi làm nhiệm vụ tiềm nhập mục tiêu điều tra cứ điểm cho mỗi trận đánh. Nhiều khi nước mắt dàn dụa, chẳng nhìn thấy gì nữa. Cũng một tuần mình có hai buổi sáng về đứng trước cổng trường để được ngắm nhìn Hương thong thả bước vào cổng trường. Khi thì cải trang làm một tiều phu đi bán củi, rồi ghé chợ mua thực phẩm đủ ăn trong vài ba ngày. Khi thì cõng một chiếc gùi đầy nấm hoặc măng xuống chợ bán, giả vờ vào quán nước đối diện cổng trường điểm tâm, nghỉ ngơi, chờ chợ đông. Chiến tranh run rủi khiến mình trở thành một kẻ dị dạng, người lạ không ai dám đến gần. Một thương binh tật nguyền suốt đời khiến mình bị tổn thương nhưng chính Hương đã níu giữ mình lại và làm thức tỉnh trái tim rỉ máu, giữ lại trong lòng một tình yêu mãnh liệt, chẳng cần hồi đáp. Quanh năm suốt tháng mình vẫn mặc bộ quân phục vải Tô Châu, đầu đội mũ cối, đeo kính đen, khăn màu cỏ úa bịt kín mặt. Thằng Tèo ngây thơ thi thoảng lại hỏi tại sao quanh năm, dù trời nắng nóng mà chú vẫn không xắn tay áo lên cho mát. Mình hát “Muỗi bay rừng già cho dài tay áo” và giải nghĩa câu thơ của Phạm Tiến Duật trong bài “Trường Sơn đông Trường Sơn tây” thay cho câu trả lời. Những lúc như thế thằng Tèo tròn xoe hai mắt phục mình sát đất. Nó nói là “cấy chi chú cũng biết tuốt”. Mình sợ Hương ngất xỉu nếu nhìn thấy khuôn mặt dị dạng này. Mình rất không muốn làm “Thằng gù nhà thờ Đức Bà”. Thanh và Sơn phản đối cách hành xử của Thủy. Rằng thằng lính đã từng đối mặt quân thù thì hà cớ gì không dám đối diện với sự thật, cho dù sự thật phũ phàng đến bao nhiêu đi nữa. Nhưng đã lỡ rồi thì phải xây dựng một kịch bản thật hoàn hảo cho ngày hội ngộ với Hương và gia đình.

Lục lọi tư trang của Thủy, hai chàng ngự lâm phát hiện ra tập hồi ký và một tập thơ được gói cẩn thận trong tờ giấy xi măng. Hai chàng phân công nhau đọc. Sau bữa cơm trưa kế hoạch được phác thảo: Thủy phải in một tập thơ để làm món quà trong ngày hội ngộ với người thân. Để khẳng định mình là một con người đầy ý chí và nghị lực. Là một thương binh tàn nhưng không phế… Bọn họ nói say sưa và nói hay hơn cả Thiếu tá Khôi, Trưởng Ban Tuyên huấn Sư đoàn ngày mới thành lập ở Nghệ An và Quảng Bình.

Ba chàng ngự lâm cân nhắc từng bài trước, sau. Sơn nhận đánh máy bản thảo gửi nhà xuất bản xin giấy phép. Tưởng là kẻ ngoại đạo nhưng Thanh xung phong viết lời giới thiệu. Anh cao hứng nói: Sẽ không có ai viết thật và hay như tớ. Vì thơ chưa thật là hay nhưng cái tình trong thơ thì quá hay, trong đó thấm đẫm tình đồng đội và chan chứa tình yêu lứa đôi. Người ngoài vô cảm không thể viết được. Phi văn dĩ nhập tình mà! Không ngờ nhà sinh vật học, thầy phong thủy Quang Thanh vẫn nhớ như in câu nói của Lưu Hiệp, đời nhà Lương ở bên Tàu, do Ngọc Sơn giảng giải trong những ngày đầu quân ngũ: “Quan văn giả tình động nhi từ phát/ Xuyết văn giả phi văn dĩ nhập tình” (Người phê bình văn học, người xem văn phải rẽ văn ra để tìm cái tình của người viết ở trong đó).

Chuyện bản thảo coi như xong. Nhưng chuyện cấp phép xuất bản thì không hề đơn giản chút nào. Lúc đầu ông giám đốc nhà xuất bản nói là kinh phí rất hạn hẹp… Đã tiên liệu được điều này, và đã có trong kịch bản, hai chàng ngự lâm bảo: Tiền in chúng tôi lo. Nếu cần chúng tôi nộp luôn cả tiền quản lí phí. Chúng tôi không lấy nhuận bút. Tiền nhuận bút chỉ cần quy đổi ra sách để tặng bạn bè, tặng ân nhân. Thấy hai chàng ngự lâm quá nhiệt thành với đứa con tinh thần đầu tiên của bạn mình, ông giám đốc đưa ra phép thử thứ hai: Cám ơn các anh đã thông cảm và chia sẻ với nhà xuất bản. Nhưng còn khâu cuối cùng là phải tìm đầu ra. Nếu không có ai nhận phát hành thì cũng không ổn. Ngọc Sơn nổ liền: Phát hành chúng tôi lo luôn. Đồng đội cũ chúng tôi đã kết nối được vài trăm, chưa kể bạn bè, đồng nghiệp. Ông giám đốc nhà xuất bản thở phào nhẹ nhõm, nhận xét: Thực ra thì tập thơ chưa hay, nhưng bài giới thiệu thì hay vô cùng. Hết sức cảm động. Ấm áp tình người… Tôi tin, ngoài đồng đội và bạn bè của các anh sẽ có rất nhiều người mua tập thơ này vì đó là tình người, là đạo lí ở đời. Nói rồi ông quyết cái rẹt: Nhà xuất bản cấp phép. Miễn quản lí phí. Các anh chịu trách nhiệm in và phát hành. Chỉ cần nộp lưu chiểu 20 cuốn.

*

Một tháng sau lại đích thân ông Hạt trưởng kiểm lâm cho anh em trong cơ quan sửa lại nhịp cầu tre qua suối; cho người phát quang bờ bụi ven con đường mòn từ xóm nhỏ ngoài vùng đệm đến đầu cánh rừng phòng hộ, nơi có lán của người giữ rừng là Rô bin xơn Thủy Phong Ba. 9 giờ sáng hôm đó, Thanh và Sơn chở lên một thùng sách 100 cuốn, một thùng bia, một can 5 lít rượu quốc lủi, và một thùng giấy carton niêm phong, có gắn nơ hồng. Thằng Tèo, mang vào một oi cá mát và cá trê rồi biến đi đâu mất tiêu. Ông Hạt trưởng kiểm lâm mua mấy kg thịt lợn và cho làm thịt một con gà nuôi thả. Thủy chuẩn bị một bó củi gộc và một bao than, sẵn sàng “nổi lửa lên em” cho bữa tiệc mừng ngày hội ngộ đồng đội. 10 giờ 45 các món nướng đã thơm điếc cả lỗ mũi, trào cả nước miếng, Thủy tuyên bố khai hội, “Chào mừng tập thơ “Khi chiếc lá xa cành”, tác phẩm đầu tay của tôi”. Ngọc Sơn lại cãi: Không phải. Đây là tập thơ đầu tay của “Thằng gù nhà thờ Đức Bà”. Quang Thanh thì bảo: Khoan. Chờ thêm một người nữa. Bên kia bờ suối tiếng thằng Tèo vang lên: Đây rồi! Mọi người ngước mắt nhìn sang. Trên nhịp cầu tre thấp thoáng một bóng hồng. Nàng bận quần lụa đen, áo pô pơ lin màu tím hoa cà, tay phải cầm nón lá nghiêng che. Thủy đứng lặng như trời trồng. “Không tin được dù đó là sự thật”. Người đang đi trên nhịp cầu tre là Hương.

Thằng Tèo chạy về trường đón cô giáo lên. Tay phải Hương cầm nón, chiếc cặp sách nhờ thằng Tèo xách đi theo sau. Quang Thắng ra hiệu, tất cả rút lui vào rừng, dành cho hai người một không gian riêng. Chừng mười phút sau thì giọng hát Lê Dung vút lên từ chiếc radio cassette xách tay, bài hát “Hoa sữa” của nhạc sĩ Hồng Đăng, nhạc phim “Hà Nội mùa chim làm tổ”.

Em vẫn từng đợi anh
Như mây từng đợi nắng
Như gió tìm rặng phi lao
Như trời xanh mong mây trắng….

Hoa sữa vẫn ngọt ngào đầu phố đêm đêm
Có lẽ nào anh lại quên em
Có lẽ nào anh lại quên em…

Dứt tiếng nhạc, mọi người lại tập trung vào lán. Ông Hạt trưởng lấy chai sâm banh ra. Ngọc Sơn bảo: Khoan! Để mở thùng quà đã. Từ bất ngờ này lại đến bất ngờ khác. Trong thùng carton là chiếc máy đánh chữ, kèm một hộp giấy than và hai hộp giấy Bãi Bằng khổ A4. Quà của đồng đội năm xưa ở Trường Sơn tặng người gác rừng làm thơ, và có một mối tình rất thơ.

Huế, tháng 11/2022
T.T
(TCSH47SDB/12-2022)

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGUYỄN VIỆT HÀCó một ngày rất âu lo đã đến với thằng béo. Bụng bồn chồn tưng tức, giống như đang ngồi giữa một cuộc họp trang trọng bỗng mót tiểu tiện mà không thể đi. Trước đấy hình như duy nhất một lần cái cảm giác bất an này cũng đã đến. Láng máng không thể nhớ.

  • MA VĂN KHÁNGKhi những người U Ní ở vùng biên sau mấy tháng trời đông giá, ngồi trong nhà đánh cuốc, sửa dao, đan lát bước ra khỏi căn nhà đất dày kín như cái kén, đặt chiếc vai cày lên cổ con trâu, đi những đường cày đầu tiên, hoặc rủ nhau đi bán công khắp các nơi trong vùng thượng huyện Bát Xát, thì hoa gạo bắt đầu nở.

  • PHAN TUẤN ANH- Anh ơi lên xe đi, xe chạy suốt Bắc Nam đấy.- Có đi Vinh hả anh, bao nhiêu tiền vậy?- Ôi dào! mấy chục ngàn thôi, lên nhanh đi anh ơi.

  • HOÀNG THỊ NHƯ HUYĐiện thoại di động trong túi rung lên báo tin nhắn đến, Luân uể oải mở ra xem. Khuya rồi sao còn ai nhắn tin nhỉ? Một số máy lạ với một dòng tin lạ hiện ra: “Bạn ơi tôi không biết bạn là ai nhưng tôi muốn bạn biết tôi sắp lìa xa cuộc sống này. Tôi đang tuyệt vọng”.Đúng là đồ khùng! Đồ dở hơi!

  • HOÀNG TRỌNG ĐỊNHPhòng giam chật chội, tối tăm...  Gần trần có một lỗ thông hơi. Bên ngoài lỗ thông hơi là bức tường tôn xám xỉn. Khe hở dài chừng 10 mét, rộng chừng 3 tấc, nằm song song và gần sát với mặt đường bên ngoài. Đứng trong phòng giam, từ lỗ thông hơi nhìn qua khe hở của bức tường, chỉ có thể thấy những bước chân người đi.

  • NGUYỄN TRƯỜNGThấy tôi ngồi chăm chú đọc thư, miệng cứ tủm tỉm cười, vợ tôi mới giả giọng, hỏi đùa:- Có việc chi thích thú mà cười một chắc rứa?- Có chuyện vui bất ngờ đấy em ạ! - Tôi vừa trả lời vừa kéo tay vợ ngồi xuống, rồi đọc lại một mạch toàn văn bốn trang thư của ba tôi từ Huế mới gửi vào.

  • VIỆT HÙNGGa H. một đêm mưa phùn ảm đạm.Khách chờ tàu nằm la liệt dọc các hành lang.Tôi bước vào phòng đợi, trong tâm trạng không vui mà cũng chẳng buồn. Tìm một chỗ ngồi bất kỳ…

  • TRẦN KIÊM ĐOÀN Ngôi nhà một thời là tổ ấm trên đồi bỗng trở thành rộng gấp đôi, gấp ba và vắng vẻ như một tòa lâu đài cổ từ khi Bé Út dọn ra khỏi nhà để lên miền Bắc học. Đứa con 18 tuổi trên đất Mỹ nầy rời nhà đi học xa thường có nghĩa là đang bước vào đời, ra khỏi vòng tay cha mẹ, thật khó lòng về lại. Những bước tiếp nối là học ra trường, kiếm việc làm, chọn nhiệm sở như cánh buồm đưa tuổi trẻ ra khơi. Bất cứ nơi nào có thể an cư lạc nghiệp trên 50 tiểu bang sẽ là nơi đất lành chim đậu. Tuổi thành niên tiêu biểu của văn hóa Âu Mỹ là tự lập, gắn liền với  vai trò chuyên môn và xã hội chứ không phải quanh quẩn với đời sống gia đình.

  • ĐỖ PHẤNĐêm rất khuya dưới chân núi H. Khó khăn lắm chúng tôi mới tìm được một con đò bằng tôn móp méo xác xơ. Chẳng hiểu ban ngày trông nó thế nào. Có lẽ đây là chiếc đò bị cấm lưu hành? Không thể có mặt ở bến vào ban ngày. Cũng là cấm làm phép. Dòng suối không có chỗ nào đủ sâu để có thể chết đuối.

  • ĐỖ KIM CUÔNGBây giờ bạn bè ít được gặp anh lang lang trên phố. Thảng hoặc dăm bữa nửa tháng, có khi hơn mới tóm được anh. Ấy là khi anh phải ra khỏi nhà đi nạp bài cho những tờ báo mà anh thường cộng tác, hoặc đi nhận nhuận bút một vài bài thơ lẻ in trên báo.

  • VŨ NAM TRỰC           Truyện ngắn

  • TRẦM NGUYÊN Ý ANHÔng Nhâm bước chầm chậm theo con đường tráng xi-măng ngoằn ngoèo trong con hẻm nhỏ. Căn nhà ông ở cuối xóm, một trệt, một lầu... mới tinh. Cánh cửa sắt đóng im ỉm. Ông ngồi bệt xuống nền xi-măng vì chân ông đã mỏi. Lẽ ra, khi mấy đứa con ông chưa bàn nhau cất lại căn nhà, ông đã có thể đẩy cánh cửa rào bằng tre và đàng hoàng bước vào nhà mình.

  • XUÂN CHUẨNĐể rồi tôi kể cho ông nghe về lai lịch cái quạt, để ông ông khỏi coi tôi là Thằng Bờm có cái quạt mo. Cái thời quạt điện quạt đá, máy lạnh mà cứ bo bo cái quạt kè, thỉnh thoảng lại đạp phành phạch như mẹ hàng cá thách lên giữa chợ. Cũng chẳng có gì li kỳ, hay mùi mẫn rơi lệ, chỉ là chuyện đời tầm phào.Hai ông trải chiếu ngồi giữa sân, nhâm nhi chén trà, ông Thân nói với đại tá Tiến về hưu như vậy khi đại tá ngỏ ý thích cái quạt kè của ông.

  • TRẦN THỊ TRƯỜNG  Bim chào đời vào lúc kém 19 phút. Trăng hạ tuần phun nhẹ màu đục của sữa vào bầu trời. Hôm sau trời lất phất mưa. Bố nói với bà ngoại trước khi đi làm: "Nếu không thấy con về thì bà giúp con cùng nhà con nuôi cháu". Câu nói ám ảnh làm trí tưởng tượng của bà ngoại nhiều lần thắt lại. Sau này nhiều khi bà ngoại sợ cả cái bóng của mình.

  • NAM TRUNG Ông Hãnh cứ đi tới đi lui trong phòng khách nhà ông, vừa đi vừa quạu cọ lẩm bẩm: thằng Hùng nó nói vậy là nó có ý coi thường mình, nó dám trứng khôn hơn vịt. Rồi mày sẽ biết tay ông. Ông sẽ cho mày còn lâu mới được vào Đảng, ông sẽ bác tất cả những đề xuất về mày...

  • HOÀNG THÁI SƠNKhi tôi lớn lên thì nội tôi đã mất từ lâu nhưng thỉnh thoảng dân làng vẫn nhắc đến người với niềm cảm mến về những chuyện không ít ly kỳ. Ông tôi rất khoẻ, người tròn vo, đen như sừng, tục danh Cu Trắt - phương ngữ vùng quê tôi nghĩa là nhỏ và rắn chắc. Ông ham mê võ thuật, thạo côn quyền, thuở trai thường đóng vai ông địa trong đám múa lân. Đám múa năm nào hễ thiếu ông là coi như nhạt trò, dân làng chẳng ai buồn xem. Người ta đồn ông tôi tài ba lỗi lạc, như có thể đi trên lửa, nhảy qua nóc nhà, còn những thứ chui vào hậu cung đình làng mà không cần dở ngói là xoàng... Kho chuyện về ông ngày càng dày do mồm miệng dân gian thêu dệt thêm, tuy nhiên trong đó nhiều chuyện là có thật.

  • PHAN XUÂN HẬUTôi trở về quê sau mười năm xa cách. Quê tôi nằm cuối con sông Vẹn, con sông này là nhánh của sông Dinh, bắt nguồn từ dãy núi Gám, chảy qua bến Dền. Nơi đây xưa kia là kinh đô của vua Dền. Vua Dền tụ tập lực lượng chống lại nhà Trần khi đó đang trấn áp nhà Lý. Vua Dền là hậu duệ của Lý Thái Tổ, ông không chịu sự chuyên quyền của vua tôi Trần Thủ Độ bèn lập căn cứ ở miền Tây Yên Thành, tức quê tôi, và Dền là kinh thành của ông, dân quen gọi ông là vua Dền.

  • NGUYỄN VĂN VINHTết Mậu Thân năm ấy tôi tròn mười sáu tuổi. Soi gương, tôi thấy y xì một con bé tóc lơ xơ hoe nắng, xấu tệ.

  • CHÂU DIÊNĐơn vị của tôi đi bộ từ một tỉnh miền Trung, lên qua Mường Phăng thì Điện Biên đã giải phóng. Sau một tháng đi bộ nhưng gần như chạy bộ, chúng tôi được phép nghỉ lại hai ngày ở một bản, hồi đó bản này nằm khá sâu trong rừng, nhưng nay thì nó đã ở bên một nhánh đường mới làm dẫn ra phố huyện Tuần Giáo để nối vào con đường số 6 chạy tuốt lên Điện Biên Phủ.

  • NGUYỄN TRƯỜNGLàng Hạ nằm phía hạ nguồn sông La Ngà. Đất chật. Người đông. Đói nghèo thành nếp. Hồi hai bên đánh nhau, nơi đây là vùng địch hậu. Giải phóng hơn chục năm mà làng Hạ đói nghèo vẫn hoàn nghèo đói. Không ít người bỏ làng đi xa chẳng thèm ngoái cổ nhìn lại. Vậy mà hơn mười năm lại đây, nhờ vực dậy cái nghề tơ tằm truyền thống vốn có từ xưa, làng Hạ đang trở thành một làng nghề giàu có nhất nhì trong vùng. Nhà cũ lỗi thời phá đi xây mới. Đường làng bùn lầy được thay bê-tông. Trường tiểu học tranh tre nứa lá hồi nào nay lên hai tầng. Điện lưới dọc ngang khắp làng đã đẩy năng suất ươm tơ kéo sợi lên cao chưa từng thấy. Chất lượng tơ tằm đạt chuẩn xuất khẩu. Hàng bán chạy hơn cả tôm tươi. Thu nhập người dân ngày một cao.