Tháng Mười trở về trong hơi thu với lá vàng buông mình trong gió. Cuộc hiến dâng của những trái tim nhạy cảm vang lên diệu âm của nỗi buồn và một phần nhỏ nhoi bí mật đàn bà. Những vần thơ của các tác giả nữ trên ba miền trong số báo tháng 10 gửi vào hư vô lời tự trầm day dứt và ẩn sâu trong nó là những câu hỏi không thể trả lời.
Dường như đó là giấc mơ vẽ lại một câu chuyện vỡ tan (Ngô Thanh Vân), là thời gian phản bội khiến ngày tràn ngập bóng đêm (Như Quỳnh De Prelle), là thứ ánh sáng mù lòa (Lữ Thị Mai), là đỉnh hoang vu (Huỳnh Thúy Kiều), là giọt máu tình làm góa phụ (Nguyen Su Tu), là “tiếng còi tàu băng qua cánh đồng, lời hẹn đầu vàng lên cây lá, em một mình thiếu phụ, búi tóc phai màu” (Phan Lệ Dung)… Cũng như chuyện những người đàn bà trong tranh Đặng Thu An ở bìa 2 và 3, họ đang cùng nhau kể những câu chuyện đầy ám gợi về nữ quyền, ở đấy cái đẹp ẩn dấu trong sự nổi loạn của tình yêu và sự quyến rũ của vui buồn và thậm chí là nỗi cô đơn tuyệt cùng của chính họ.
Thời đại mà phần lớn đồng nghiệp của nhà văn tôi luyện làm độc giả chân chính dễ kích động các tác giả ngầm đánh bóng mình, song dễ khiến dòng tên phai dần trong đôi mắt tinh tường của thời gian nghiệt ngã. Số báo này giới thiệu đến bạn đọc nữ tác giả từng nhận Tặng thưởng của Sông Hương, Trần Băng Khuê. Truyện ngắn khá tự nhiên trong triển khai ý tưởng, đôi khi tự nhiên đến giật mình bởi nó dựng lên những hố thẳm tâm thức ám ảnh huyễn giác chúng ta. Cô gái này rất khéo giữ khách trong ngôi nhà nhuốm sáng giấc mơ của mình. Không gian kẻ sáng tạo và con người siêu hư cấu hòa lẫn với nhiều ngõ hẹp vẫn khiến họ dễ dàng thoát ra. Truyện Trần Băng Khuê luôn dẫn dụ người đọc lần tìm dấu vết tự ngã chủ nhân, bởi trong tự ngã các nhân vật có sức hút của thứ quyền lực dẻo, một phen gặp gỡ chợt là tri âm.
Chuyên đề Cụ Huỳnh Thúc Kháng và báo Tiếng Dân đã mở ra những hướng nhìn rất mới về một bậc trí thức chân chính. Cụ Huỳnh Thúc Kháng đỗ “tam giáp đồng tấn sĩ” lúc 29 tuổi, khoa Giáp Thìn triều Thành Thái 16 (1904) đã đưa ông lên vị trí “tinh hoa bản xứ”, trở thành một nhà yêu nước mẫu mực, dấn thân vào con đường hoạt động yêu nước, từng làm Viện trưởng Viện Dân biểu Trung Kỳ; đặc biệt cụ Huỳnh từng được Hồ Chủ tịch tin tưởng ủy thác, giao Quyền Chủ tịch nước trong thời đoạn đất nước trước hiểm họa ngàn cân treo sợi tóc. Nhà nghiên cứu trẻ Nguyễn Quang Huy nhìn nhận về động thái tri thức bản địa đầu thế kỷ XX, nhìn nhận vai trò người trí thức trong mối tương quan chằng chịt giữa xã hội để rồi tìm một hướng mở nhận diện cụ Huỳnh trong rất nhiều “nhà” ông từng hiện diện.
Với quan niệm “Trăm vạn quân không bằng một tờ báo” và luôn ý thức gắn sứ mệnh tờ báo với vận mệnh của dân tộc, riêng nghiệp làm báo của cụ Huỳnh Thúc Kháng đã để lại một di sản lớn. Suốt 17 năm, từ đầu năm 1927 đến lúc thực dân Pháp ra lệnh đình bản 1943, Tiếng Dân ra được 1766 số, là tờ báo đầu tiên ở Việt Nam có cái tên hoàn toàn bằng tiếng Việt; cụ Huỳnh là người sáng lập đồng thời làm Chủ nhiệm kiêm Chủ bút. Và đây xem như diễn đàn biện thuyết cho cuộc cải tổ tri thức hướng đến văn hóa nhận thức mới, như là nét trội nhất được nhà trí thức văn hóa Huỳnh Thúc Kháng thể hiện.
Dưới đây là mục lục:
Thơ các tác giả nữ:
LỮ THỊ MAI - NGÔ THANH VÂN - ĐÔNG HÀ - TRẦN THỊ TƯỜNG VY - PHAN LỆ DUNG - NGUYEN SU TU - NHƯ QUỲNH DE PRELLE - HUỲNH THUÝ KIỀU - CHÂU THU HÀ - HOÀNG THỤY ANH - NGUYỄN THỊ HẢI - NGUYỄN THANH LƯU - TẠ ANH THƯ - KIM QUÝ
VĂN:
- MƯỜI NGÀY - Trần Băng Khuê
TRANG THIẾU NHI:
Cây bút tuổi hồng: Lê Huỳnh Bảo Châu - Nguyễn Phương Nghi - Đoàn Nguyên Khánh Mỹ - Nguyễn Thị Phương Duyên - Lê Trần Minh Thư
THƠ:
ĐÀO DUY ANH - ĐỖ QUANG VINH - ĐOÀN TRỌNG HẢI - MAI VĂN HOAN - NGUYỄN THỐNG NHẤT - LÊ NHƯỢC THỦY
NHẠC:
- NHỚ VỀ ĐỒNG KHÁNH - Nhạc & Lời: Hoàng Hương Trang
- NẮNG HOÀNG HOA - Nhạc: Hoàng Ngọc Biên & Lời: Hoàng Phủ Ngọc Tường - Bìa 4
* Chuyên đề CỤ HUỲNH THÚC KHÁNG VÀ BÁO TIẾNG DÂN
- ĐỘNG THÁI TRI THỨC BẢN ĐỊA ĐẦU THẾ KỈ XX - NHÌN TỪ TRƯỜNG HỢP HUỲNH THÚC KHÁNG - Nguyễn Quang Huy
- VÀI NÉT VỀ CÔNG TY HUỲNH THÚC KHÁNG VÀ BÁO TIẾNG DÂN - Dương Phước Thu
- HUỲNH THÚC KHÁNG - TRƯỚC NGÃ BA THỜI ĐẠI - Phạm Phú Phong
TÁC GIẢ - TÁC PHẨM & DƯ LUÂN:
- NHÀ THƠ QUANG DŨNG TRONG ĐỜI SỐNG VĂN HỌC MIỀN NAM 1954 - 1975 - Trần Hoài Anh
- CÔ GÁI TRÊN SÔNG - ĐẶNG NHẬT MINH
NGHIÊN CỨU & BÌNH LUẬN:
- THƠ VÀ KHÔNG THƠ (kỳ 2) - Khế Iêm
...
- Thư tín Sông Hương
- Bìa 1: Tác phẩm “TÌNH YÊU ĐẠI DƯƠNG” (Sơn dầu) của họa sĩ Công Huyền Tôn Nữ Tuyết Mai
- Phụ bản bìa 2 & 3: SỨC QUYẾN RŨ CỦA NHỮNG LỜI THÌ THẦM - Bạch Diệp
- Minh họa: Đặng Mậu Tựu, Nhím
BAN BIÊN TẬP
“Ngài” rùa đá được xem như một trong hai linh vật để trấn yểm vùng đất Phú Lộc (Thừa Thiên - Huế), trên đầu “ngài” còn có một chữ Vương.
Huế có những sáng mờ sương, sương giăng kín những tuyến phố, bầu trời như sà xuống tận đầu người, xứ Huế vốn mộng mơ càng thêm huyền ảo.
Lối kiến trúc độc đáo thuộc hệ phái thevarada (Nam tông) tạo cho chùa Thiền Lâm một nét đẹp khác biệt so với các cổ tự đất cố đô.
Cố đô Huế bây giờ không còn trầm mặc, phong cảnh về đêm thật quyến rũ bởi việc chiếu sáng nghệ thuật cầu Trường Tiền.
Sáng 10-3, Sở VHTT&DL tỉnh Thừa Thiên- Huế phối hợp với UBND huyện A Lưới đã tổ chức lễ hội Ariêu Car_một trong những lễ hội văn hóa truyền thống lớn với sự tham gia đông đảo cộng đồng người dân tộc thiểu số Pa Cô, Tà Ôi, Cơ Tu, Pa Hy đang sinh sống ở địa bàn vùng cao huyện A Lưới .
Nhà vườn An Hiên, phủ thờ Công chúa Ngọc Sơn, Xuân Viên Tiểu Cung... là những nhà vườn đẹp bậc nhất xứ Huế. Hệ thống kiến trúc dân gian này là một điểm nhấn trong khám phá nét đẹp văn hóa Cố đô.
Lễ hội A riêu Car là dịp để các dân tộc hội tụ, thể hiện tinh thần đoàn kết, tính cộng đồng, bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa truyền thống.
Là món ăn có cái tên khiến nhiều người phải ngẩn ra vì nghe quá lạ, canh chột nưa chinh phục thực khách bởi hương vị đậm chất quê và cái tình của người dân Huế.
SHO - Sáng ngày 21/2 (14 Tháng Giêng năm Bính Thân), Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế đã tổ chức chuyến đi Viếng mộ thi nhân tại các nghĩa trang trên địa bàn thành phố Huế tưởng nhớ các văn nghệ sĩ đã khuất . Đây là năm thứ tám văn nghệ sĩ Cố đô Huế tổ chức đi viếng mộ thi nhân vào dịp Tết Nguyên tiêu.
Không biết có tự bao giờ mà hoa tre là lễ vật không thể thiếu trong lễ "cúng bổn mạng" đầu năm của mỗi gia đình xứ Huế. Nội tôi kể rằng: Thuở xưa khi chưa có "ông tổ" khai sinh ra loại hoa tre thì người ta "cúng bổn mạng" bằng hoa thọ. Hoa thọ mang ý nghĩa trường tồn, cầu mong được sống lâu để sum vầy cùng con cháu.
Là kinh đô xưa cổ còn được lưu giữ gần như toàn vẹn nhất cho đến bây giờ, Tết ở Huế tượng trưng cho sợi dây liên kết giữa quá khứ và hiện tại.
Cặp rắn này chỉ xuất hiện tại chùa vào các ngày sóc vọng (các ngày 1, 15, 30 hàng tháng) và trú lại qua đêm trong hang cây da cổ thụ rồi lặng lẽ bỏ đi. Thấy chuyện lạ, một số người cho rằng đây là đôi rắn “có chân tu” nên mới về chùa để “nghe giảng giải kinh Phật”...
Bấy lâu nay, nhiều người dân, du khách vẫn thường nhắc đến con rùa khổng lồ thi thoảng xuất hiện trên dòng sông Hương, đoạn trước mặt điện Hòn Chén (thuộc thôn Ngọc Hồ, phường Hương Hồ, thị xã Hương Trà, Thừa Thiên – Huế). Người dân địa phương gọi đó là “rùa thần”.
Có thể nói, trong số hàng trăm sản phẩm bằng tre của các nghệ nhân làng Bao La (xã Quảng Phú, huyện Quảng Điền, Thừa Thiên - Huế) tạo nên, chúng tôi ấn tượng nhất là đèn lồng các loại. Từ đèn ú, đèn lục giác, bát giác… Tuy khác nhau về mẫu mã, hình dáng nhưng tất cả đều chan chứa tâm tình, gửi gắm “cái hồn” của làng nghề nơi đây.
Bên cạnh lớp nghệ nhân "vàng", lớp những nghệ sỹ "măng non" - nghệ sỹ trẻ là thế hệ mới sẽ đồng hành cùng nghệ thuật Ca Huế trên con đường phát huy giá trị di sản này ra cộng đồng, tiến tới hội nhập di sản quốc tế. Do đó, việc làm sao để truyền lại vẹn nguyên bản sắc, đúng cái "chất" của Ca Huế cho lớp nghệ sỹ trẻ kế tục cũng đang là vấn đề được các ban, ngành quan tâm.
Chuyên đề trọng điểm của số báo này, dành nhiều trang về Hoàng Phủ Ngọc Tường - nhà văn, nhà văn hóa Huế. Những trang văn của ông, như chiếc đũa thần, thức dậy những vỉa tầng văn hóa Huế. Một điều khác, ông cùng bạn bè thuở ấy, với một hệ mỹ cảm khác biệt, đã tạc vào văn nghệ Huế, Việt Nam những giá trị trường cửu.
Với những giá trị mà cổ vật cung đình Huế vốn có, và với “quê hương” nó được sinh ra, cố đô Huế xứng đáng đón nhận lại những cổ vật quan trọng một thời của cha ông.
Với những giá trị mà cổ vật cung đình Huế vốn có, và với “quê hương” nó được sinh ra, cố đô Huế xứng đáng đón nhận lại những cổ vật quan trọng một thời của cha ông.
Tại Huế, toàn bộ các ấn quý bằng vàng, bạc, ngọc hay còn gọi là Kim Ngọc Bảo Tỷ đến nay không còn một chiếc nào. Có lẽ thật sự đây là điều đáng tiếc nhất khi xuất xứ những chiếc ấn quý đó đều từ Huế mà ra.
Những biến cố của lịch sử đã khiến cho một lượng cổ vật lớn và quý hiếm đã “biến mất” khỏi cố đô Huế. Hãy cùng lật lại những điểm mốc ấy.