Đối tượng trữ tình trong thơ Nguyễn Đắc Xuân

14:53 12/05/2023

MAI VĂN HOAN

Nguyễn Đắc Xuân là nhà văn, nhà báo, nhà thơ, nhà nghiên cứu lịch sử và văn hóa Huế. Đời thơ tôi (Nxb. Hội Nhà văn, 2022) là tập thơ chính thức đầu tiên anh gửi tới bạn đọc.

Nhà thơ Nguyễn Đắc Xuân trong buổi ra mắt sách tại TCSH 12/2/2023 - Ảnh: PA

Đời thơ tôi như là sự tổng kết 86 năm đời và thơ anh từ thời trai trẻ cho đến tuổi xế chiều. Anh viết về những tháng năm tranh đấu, những ngày tháng tù đày và niềm vui đoàn tụ. Lúc còn là sinh viên, Nguyễn Đắc Xuân rất mê thơ. Mê đến mức anh chép nguyên cả quyển Thi nhân Việt Nam của Hoài Thanh - Hoài Chân. Anh tâm sự: “Thời đó, thơ chiếm hết thời gian của tôi. Thơ là người tình vỗ về tôi. Thơ giúp tôi thoát ra khỏi sự cô đơn”. Rồi anh kiên nhẫn tập làm thơ, tự in tập thơ đầu tay của mình bằng roneo với nhan đề Từ cõi vô thường. Một số bài thơ tranh đấu của anh không chỉ được đăng báo mà còn được Phạm Duy phổ nhạc. Đời thơ tôi gồm 78 bài do tác giả tự chọn từ ngàn trang bản thảo lưu giữ trong sổ tay. Anh khiêm tốn nói rằng: “Đời thơ tôi chỉ là những kỷ niệm đẹp của người cầm bút với mong muốn lưu lại cho con cháu, bạn bè, cho thế hệ tương lai biết có một người Huế làm thơ nối hai thế kỷ”.

Xuyên suốt tập thơ là hình tượng “em”. “Em” trở thành đối tượng trữ tình có mặt ở mọi nơi, mọi lúc, trong chiến tranh cũng như trong hòa bình.

Mối tình đầu của Nguyễn Đắc Xuân phảng phất mùi hương hoa bưởi. Tác giả nhớ lại:

Ngày xưa anh đi qua ngõ nhà em
Hương bưởi thơm theo anh vào lớp học
Kín đáo quá nên anh không biết được
Hoa theo anh đã tự bao giờ
                             
(Hương bưởi)

Đọc “Hương bưởi” của anh, tôi chợt nhớ đến “Hương thầm” của Phan Thị Thanh Nhàn. Hai chàng trai ở hai bài thơ đều “vô tình” như nhau, đều chia tay “chưa nói điều gì/ Mà hương thầm thơm mãi bước người đi…”. Khi đã phải lòng nhau, người con gái thường lo lỡ lộ ra sẽ bị mẹ cha ngăn cấm:

Anh khẽ gọi thầm một tiếng em
Em nhìn ngoan ngoãn ngẩng đầu lên
Rưng rưng đôi mắt em thầm bảo
Đừng cho me biết me la em
                   
(Thời gian và cuộc đời)

“La” chứ không phải là mắng. “La” không chỉ nhẹ hơn mắng mà còn mang sắc thái địa phương. Có người con gái Huế từng rỉ vào tai tôi: “Hôm qua về khuya em bị me la”. (Ở Huế, có một số gia đình gọi mẹ bằng me). Cuộc tình vừa mới chớm nở thì vào mùa thu năm 1963, khi “xuống đường” tham gia phong trào đấu tranh của bà con Phật tử ở thành phố Huế, Nguyễn Đắc Xuân bị chính quyền Ngô Đình Diệm bắt giam một thời gian. Ngồi trong tù, nghe tiếng mưa rơi mà ngao ngán. Hồn thơ Điên (Đau thương) của Hàn Mặc Tử nhập vào tâm thức anh. Đúng ngày Xá tội vong nhân (ngày cúng cô hồn Rằm tháng Bảy), ở sau song cửa sắt, anh ngồi đợi trăng lên. Nhưng khi trăng vừa lên thì bị những song sắt nhà tù chắn ngang. Anh gào thét trong vô vọng:

Anh gọi rú lên trăng đâu trăng
Như con cọp đói nằm trong chuồng
Bốn bề tường kín thâm u lắm
Cửa sổ viên thành một miếng trăng
                             
(Bên trong cửa sắt)

Cách rú gọi trăng, cách nói “miếng trăng”, phảng phất âm hưởng của thơ Hàn Mặc Tử -thần tượng của anh và một số nhà thơ miền Nam thời đó.

Vào ngày 20/7/1965, sau khi dám đọc bài thơ “Nhân danh” tại cuộc hội thảo “Tuổi trẻ miền Nam chuẩn bị Bắc tiến”, với câu kết: Xin nhân danh đường lối hòa bình của Tổng thống Giôn-xơn, tôi giết luôn tôi, anh bị chính quyền VNCH lùng bắt, phải chạy ra vùng chiến khu. Trước Tết Mậu Thân (1968), anh được điều động về Huế hoạt động bí mật. Sau Tết, do một số cơ sở bị lộ, Nguyễn Đắc Xuân buộc phải trở lại chiến khu mà chưa kịp chia tay người yêu:

Anh đi gấp quá nên anh chẳng
Ghé tạt qua nhà giã biệt em
Đường lên Kim Phụng trăng hôm ấy
Mây xám giăng mờ suốt cả đêm
                   
(Gửi em nơi thành phố)

Ra đến chiến khu, nỗi nhớ người yêu cứ làm anh nôn nao, thấp thỏm “như đứng đống lửa, như ngồi đống than”:

Anh lại gọi tên em cho đỡ nhớ
Lưng trời lạc hướng ánh sao băng
Anh cứ ngỡ đêm nay đường Bến Ngự
Em lang thang trong ánh mắt lệ tràn
                   
(Tha thiết trong hồn)

Sống ở chiến khu với bao thiếu thốn, lại phải lo trăm công nghìn việc. Thế nên:

Anh viết gì đây cho em nhỉ
Bao nhiêu giấy bút cũng không cùng
Ở đây tất cả đều khan hiếm
Anh viết lên trời chữ thủy chung
                   
(Viết thư)

Vì ở chiến khu, giữa lúc bom đạn ngút trời, cho nên:

Sóng điện tình anh hay bị nhiễu
Chỉ mình em bắt được mà thôi
Thế gian dễ mấy ai đồng điệu
Ta nguyện theo nhau đến trọn đời
                   
(Viết thư)

Nhà thơ Nguyễn Đắc Xuân và nhà thơ Mai Văn Hoan trong buổi ra mắt sách tại Tạp chí Sông Hương chiều ngày 12/2/2023



Phải ở trong hoàn cảnh khó khăn gian khổ như vậy mới hiểu hết sức mạnh của tình yêu. Thật khó tin đó là những vần thơ của một thanh niên từng khẳng khái tuyên bố: “Tôi vẫn còn tranh đấu mãi không thôi!”, “Anh muốn bịt súng thần công lại”, “Làm người ai cũng phải chết một lần/ Tôi chọn cái chết cho hòa bình dân tộc”… Bên những “dòng thơ lửa cháy” như thế, Nguyễn Đắc Xuân vẫn âm thầm viết những “dòng thơ tươi xanh” về tình yêu. Điều đó thật đáng trân trọng.

Sau 1975, khi nước nhà thống nhất, non sông thu về một mối, anh tiếp tục làm thơ về cuộc sống mới, con người mới… Mảng thơ tình có phần giảm đi vì nhiều lý do, nhưng tâm hồn anh vẫn không thay đổi. Ngắm “Mùa hoa đầu của cây mai trắng”, anh hỏi thầm:

Chờ ai hoa đứng một mình
Mặc cho mưa gió thân hình mỏng manh?
Đón ai tay vẫy rung cành?
Trông theo ta nghĩ: Hoa dành riêng ta!

Chứng tỏ anh còn đa tình và lãng mạn lắm! Một bài thơ Nguyễn Đắc Xuân viết sau ngày hòa bình khiến cho nhà thơ Nguyễn Quang Thiều phải đọc đi đọc lại nhiều lần là bài “Điều giản dị”:

Ở chiến trường bom đạn nổ bên tai
Cha vẫn ngủ để hôm sau đánh giặc
Giờ nằm bên con êm ái thế này
Cha thức dậy mỗi lần con trở giấc

“Trong 4 câu thơ ngắn ngủi và giản dị ấy chứa đựng cái vô cùng lớn lao của bình yên, của hạnh phúc” (Nguyễn Quang Thiều). Năm 1996, Nguyễn Đắc Xuân sang Pháp sưu tầm tài liệu về Huế. Trước khi về nước, người đẹp Diệm My hỏi: “Mai về Huế anh có nhớ Paris không?”. Trong vòng chưa đến 10 phút, Nguyễn Đắc Xuân đã viết xong bài thơ dài 28 câu thay câu trả lời:

Mai anh về, anh có nhớ Paris
Nhớ métro sớm tối đi
Sự tích Cố đô bao chuyện kể
Không còn bên nớ với bên ni
Mai về, anh có nhớ Paris
Đời thường như thể cuộc chạy thi
Món Huế còn nguyên câu chuyện cũ
Bâng khuâng nhớ những mối tình si
Mai về, anh có nhớ Paris
Có nhớ những chiều gặp Diệm My?

Tôi dỗ dành tôi thôi thổn thức
Hẹn ngày trở lại với Paris!

Bài thơ có đến 28 câu nhưng chỉ gieo mỗi vần “i”. Thơ độc vận là một kiểu chơi thơ hết sức độc đáo. Làm thơ độc vận chẳng khác gì làm xiếc trên dây. Thế mà chỉ trong vòng chưa đầy 10 phút anh làm được bài thơ dài 28 câu, phải nói là tài!

Năm ngoái (2022), anh Nguyễn Đắc Xuân tròn 85 tuổi nhưng vẫn còn rất “Xuân”. Sau đây là những dòng tâm sự của anh mà tôi hết sức tâm đắc:

Tám mươi lăm tuổi vẫn còn xuân
Còn khóc, còn cười với thế nhân
Yêu quá cuộc đời nên vẫn thiếu
Cho dù được sống đến trăm năm.

M.V.H
(TCSH48SDB/03-2023)

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • TRẦN HUYỀN SÂMSau mười năm, kể từ khi “Cái trống thiếc” ngỗ ngược của chú lùn Oska vang lên trên đống gạch đổ nát của thế chiến II, Herta Munller đã tiếp nối Gunter Gras và vinh danh cho dân tộc Đức bởi giải Nobel 2009.

  • NGUYỄN ĐÌNH CHÍNH       (nhân Đọc "Từ những bờ hoa gió thổi về")Ông Trần Nhật Thu sinh năm 1944 ở Quảng Bình. Ông  lớn lên, làm thơ, đoạt giải thi ca cũng từ miền đất gió cát này. Năm 1978 ông rời Quảng Bình như một kẻ chạy trốn quê hương. Nhưng hơn hai chục năm nay miền quê xứ cát vẫn âm thầm đeo bám thơ ông. Qua đó lộ cảm tâm trạng ông vẫn đau đáu miền gió cát này.

  • Nhà văn Tô Nhuận Vỹ tên thật là Tô Thế Quảng, sinh ngày 25 tháng 8 năm 1941, quê ở Vinh Xuân, Phú Vang, Thừa Thiên Huế. Anh đã kinh qua các công việc: dạy học, phóng viên, biên tập viên… Anh từng giữ các chức vụ: Tổng thư ký và Chủ tịch Hội Văn nghệ Bình Trị Thiên, Tổng biên tập tạp chí Sông Hương, Giám đốc Sở Ngoại vụ, đại biểu HĐND tỉnh Thừa Thiên Huế, Uỷ viên Ban kiểm tra, Uỷ viên Hội đồng văn xuôi và Ban đối ngoại Hội Nhà văn Việt Nam.

  • ĐÔNG LAThế là sự ồn ào qua rồi. Diễn đàn đã đóng cửa. Nhưng lẽ nào việc thẩm định văn chương chỉ râm ran một hồi như thế, rồi cái nhùng nhằng còn nguyên nhùng nhằng, sự mâu thuẫn còn nguyên mâu thuẫn, và chuyện hay dở đến đâu cũng vẫn cứ mãi lửng lơ!

  • ĐÀO DUY HIỆP"Ngữ pháp, ngữ pháp khô khan chính nó, trở thành cái gì đó như một thuật phù thủy, gọi hồn; các từ sống lại, được cấp xương thịt, danh từ trong dáng vẻ tôn nghiêm bản thể của nó, tính từ, trang phục trong suốt khoác lên nó và nhuộm sắc cho nó một lớp tráng, còn động từ, thiên thần của vận động, mang lại cho câu sự động dao" (Baudelaire) (1)

  • MAI VĂN HOANMai Văn Hoan sinh 20-1-1949, quê Thanh Trạch, Bố Trạch, Quảng Bình. Anh tốt nghiệp khoa Văn, Đại học Sư phạm Vinh và từng dạy ở các trường: Cấp 3 Minh Hoá (1971-1973), Sư phạm 10+3 Quảng Bình (1973-1979), Hai Bà Trưng (1979-1985), Quốc Học (1985-2009). Anh từng tham gia bồi dưỡng hàng chục học sinh giỏi văn tỉnh Bình Trị Thiên (1979-1989), tỉnh Thừa Thiên Huế (1989-2009) đoạt giải Quốc gia. Một số học sinh của anh đã trở thành phó giáo sư, tiến sĩ, cán bộ quản lý, nhà văn, nhà báo... nhưng vẫn “mãi mãi không thể nào quên những giờ dạy văn của thầy Mai Văn Hoan” như lời chị Lương Thị Bích Ngọc tâm sự trên VietNamNet.

  • NGUYỄN HỮU NGÔ Cuốn sách đồ sộ "Côn Đảo" của Nhà xuất bản Trẻ (1996) là một nguồn tư liệu quý mà những người làm công việc nghiên cứu lịch sử cách mạng Việt Nam không thể không tìm đến. Vì vậy sự chính xác về thông tin đòi hỏi phải khẳng định. Và cũng vì vậy tôi có đôi điều xin thưa với ban biên tập Nhà xuất bản Trẻ về những thông tin về nhân vật Mai Tấn Hoàng được coi là người tử tù cách mạng.

  • VÕ THỊ QUỲNHĐặng Huy Trứ (1825 - 1874) đã để lại khá nhiều thơ văn cho đời. "Từ Thụ Yếu Quy"(*) tập sách bàn về nạn hối lộ và đức thanh liêm của người làm quan, là một trong những áng văn quý giá ấy.

  • Văn Cầm Hải tên thật Nguyễn Thanh Hải, sinh ngày 20 tháng 01 năm 1972, quê ở làng Trần Xá, Hàm Ninh, Quảng Ninh, Quảng Bình.

  • CAO HUY HÙNGBa mươi năm đã trôi qua, kể từ ngày Bác Hồ vĩnh biệt chúng ta! Người đã để lại cho toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta di sản vô cùng quí báu: Đó là bản di chúc lịch sử của thời đại Hồ Chí Minh, thời đại rực rỡ nhất trong lịch sử vinh quang hàng ngàn năm của dân tộc. Đó là kỷ nguyên độc lập dân tộc, tự do của Tổ quốc, kỷ nguyên cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.

  • LÊ THỊ MÂYĐề tặng một giấc mơ là tập thơ hay và buồn của Lâm Thị Mỹ Dạ. Tập thơ này được giải thưởng của UBTQLH các Hội Văn học Nghệ thuật Việt Nam năm 1998. Sau khi xóa bao cấp trong in ấn thơ, rất nhiều người có cơ hội tự in thơ, có khi là mỗi năm một tập. Lâm Thị Mỹ Dạ không ở trong diện ấy.

  • ĐẶNG TIẾNPhê bình huyền thoại(1) của Đào Ngọc Chương là một cuốn sách mỏng, in giới hạn, có lẽ chỉ nhắm vào một nhóm sinh viên, nhưng là sách cần yếu, mới mẻ.

  • HỒNG NHUĐó là “Tình bậc thang” (NXB Hội Nhà văn 2006) và “Mặt cắt” (NXB Hội Nhà văn 2007) của một nữ thi sĩ mà cho đến nay không nhiều người biết đến, ít nhất là trong làng thơ. Vì một lẽ rất giản đơn: chị mới xuất hiện trên thi đàn Việt Nam vài ba năm nay thôi.

  • FAN ANHTrong cuộc sống của tất cả chúng ta, đôi khi nụ cười không đồng nghĩa với sự hạnh phúc, cũng như nước mắt không phải bao giờ cũng đồng điệu với nỗi đau. Chính vì thế, mặc dù tiểu thuyết Ba ơi, mình đi đâu? của Jean Louis Fournier là một tác phẩm có thể “gây ra” không ít những tiếng cười, nhưng cảm xúc thanh lọc (Catharsis) mà cuốn sách nhỏ này mang lại cũng lớn lao như bất kì một vở bi kịch nào.

  • Ngày 6 tháng 4 năm 2007 tại Hà Nội, chúng tôi đến thăm nhà thơ Dương Tường tại nhà riêng. Dương Tường ngồi sau một chiếc bàn nhỏ và thấp chất đầy sách vở và ly tách giữa một căn phòng rộng dùng làm phòng triển lãm tranh. Tranh treo kín các tường.

  • ĐOÀN TUẤNTrong tâm tưởng của tôi, thi sĩ Nguyễn Bính là một người có dáng gầy, vóc nhỏ, gương mặt nhẹ nhõm với đôi mắt sáng, tinh anh, mũi dọc dừa và cái miệng cân đối. Tóc Nguyễn Bính không bao giờ để dài. Áo quần Nguyễn Bính thường có màu sáng. Ông đi lại nhanh nhẹn, nhiều khi vội vã. Gương mặt Nguyễn Bính là một gương mặt ưa nhìn bởi trong đó chứa đựng chiều sâu của nhiều ý nghĩ và sắc mặt thay đổi theo tâm trạng thất thường của ông.

  • PHẠM QUANG TRUNGTôi muốn nói đến bài “ Tạm biệt” (hay “ Tạm biệt Huế”) của nhà thơ Thu Bồn. Dẫu đã có nhiều bài thơ hay, rất hay lấy cảm hứng từ Huế, tôi dám quả quyết là nó sẽ vẫn được nhắc tới như là một trong những bài thơ hay nhất. Xin kể một kỷ niệm đẹp riêng với tôi.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊNâng hợp tuyển “Hải Bằng” (HTHB) sang trọng và trĩu nặng trên tay, thật nhiều cảm xúc tràn đến với tôi. Cuốn sách được gia đình nhà thơ Hải Bằng tặng cho tất cả những người đến dự ngày giỗ lần thứ 11 của nhà thơ được tổ chức tại một ngôi nhà mới xây ở cuối đường Thanh Hải - lại là tên nhà thơ quen thuộc của xứ Huế.

  • TÔN PHƯƠNG LANCũng như những nhà văn mặc áo lính thuộc thế hệ đầu và tờ tạp chí Văn nghệ quân đội của họ, Trần Dần là một tên tuổi quen thuộc mà gắn với tên tuổi ông là cuốn tiểu thuyết Người người lớp lớp. Là một học sinh thành phố, khi Cách mạng tháng Tám thành công, 19 tuổi, ông bắt đầu hoạt động cách mạng rồi đầu quân tham gia kháng chiến chống Pháp và hoạt động văn nghệ.

  • Hồ Thế Hà sinh năm 1955, quê ở thị trấn Ngô Mây, huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định. Anh tham gia quân đội từ 1978 đến 1982, chiến đấu tại Campuchia. Hồ Thế Hà tốt nghiệp khoa Ngữ văn, Đại học Tổng hợp Huế năm 1985 và được giữ lại trường. Hiện anh là Phó Giáo sư, Tiến sĩ đang giảng dạy tại khoa Ngữ văn, trường Đại học Khoa học - Đại học Huế. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, Hội viên Hội Nhà báo Việt Nam. Anh đồng thời là Ủy viên Ban chấp hành Hội LHVHNT Thừa Thiên Huế, Ủy viên Ban chấp hành Hội Nhà văn Huế nhiệm kì: 2000 - 2005; 2005 - 2010. Chủ tịch Hội đồng Nghệ thuật Hội LHVHNT Thừa Thiên Huế, nhiệm kì 2000 - 2005; 2005 - 2010.