JEAN-CLET MARTIN
Trong thời điểm cách ly và tự cách ly này, thế giới tái khám phá ra chiều kích mang lại cho nó một phương hướng nhất định.
Ảnh: internet
Việc hạn chế đi ra ngoài đặt chúng ta vào “các ranh giới”, vào một thế giới mà sự mở rộng của nó liên tục hướng về một thế giới khác, những thế giới vốn bị lõm sâu vào hằng hà sa số những nơi chốn. Đây rõ ràng là ý nghĩa mà Deleuze đã đem lại cho khái niệm giải lãnh thổ hóa (déterritorialisation).
Chúng ta không nên hiểu khái niệm này của Deleuze như thể hàm ý một sự du hành hay một sự di cư kiểu đời sống du mục (nomadisme). Theo Deleuze, đó là một cuộc du hành tại chỗ, tại một nơi chốn, và du mục không nhất thiết phải là một cuộc vượt qua sa mạc. Nó là thứ khiến ta phải biết cách làm sao để ở lại, để lưu lại, biết tiếp tục sống trong sự chán sống, trong một đời sống đang chuẩn bị tàng hình. Sự di cư này, đưa ta vào trong sự mở rộng tự thân của thế giới, không nhất thiết biến việc giải lãnh thổ kia buộc phải gắn liền với mặt đất, với địa hình. Ta không cần phải trốn chạy đi đâu cả. Không có cuộc du ngoạn hay lữ hành nào ở đây cả.
Không gian thực, thứ phân tách chúng ta hàng ngày, có thể luôn được phân chia thành những kinh nghiệm mới mẻ về nơi chốn. Chính tính phân định ranh giới của nơi chốn này lại luôn hứa hẹn cho mọi sự khai mở, mọi sự trở lại với cùng một chỗ, mọi sự thu mình lại trong một góc. Tuy nhiên, việc làm này, đặt trong thời đại toàn cầu hóa, không phải là điều gì đó có tính thụt lùi, mà ngược lại, thay vì di cư, việc ở một chỗ, việc hạn chế đi ra ngoài, việc tự cô lập, tự cách ly lại không ngừng làm thay đổi bản thân ta, liên tục khiến ta tìm kiếm lại ý nghĩa của cái mà người Hy Lạp cổ đại gọi là Đạo lý (Ethos).
Nơi chốn hay môi trường có khả năng tự chia tách, tự phân lập thành vô tận các phân đoạn, các khoảng cách này thực sự đã đào xới cho một kiểu hành vi, một căn nguyên đạo đức mới. Nơi chốn ấy giống như một loại tàu điện ngầm, ở đó con tàu sẽ đi từ nhà ga này đến nhà ga kia trong thời kỳ hậu tận thế, hậu tư bản. Mỗi nhà ga xuất hiện ở đó như một thế giới với nét đặc trưng riêng. Và giả như cuộc hành trình như thế luôn đứng trước sự rình rập của những hiểm họa, người ta sẽ luôn trang bị cho mình sự thận trọng. Sự thận trọng chính là sự chuẩn bị bố trí cho tính cách, hành vi và thói quen mà ta thực hiện ở một nơi chưa từng bao giờ biết đến.
Những ranh giới, ở đây, là dịp để ta học cách sống lại trong những nơi chốn thân thuộc. Đó không chỉ là những nơi chốn tự nhiên mà còn là nơi chốn nhân tạo, để sống trong một hình thức hiếu khách mới mẻ, luôn chào đón cái mới, cái xa lạ. Sự thích nghi ở một chỗ này, thích nghi một nơi chốn, một vị trí có thể chỉ ra sự thay đổi về cơ thể, thay đổi về nhân dạng. Việc sống trong một mét vuông cần đến rất nhiều những mánh khóe để ta có thể hình dung về một thứ nhà ga không gian thực sự ở đó. Thay vì đi cư, ta phải liên tục tái định cư, liên tục tái chế. Tái định cư phương thức tồn tại của chúng ta không gì khác hơn chính là căn nguyên tất yếu để mang lại cho một nơi chốn tất cả tiềm năng của nó, sự vô tận của các ngưỡng mà nó thiết lập giữa những không gian không thể chung đụng với nhau.
Một con muỗi trong suốt cuộc đời của nó di chuyển không quá một trăm mét. Và toàn cầu hóa đã mang những con muỗi từ Trung Quốc đến các nơi chốn khác, gieo dịch bệnh đến những nơi này, ở đó ta phải đối mặt với một không gian rõ ràng sẽ tự thay đổi hoặc tự hủy diệt. Vì thế, chúng ta phải tìm thấy lại nguồn năng lượng riêng của từng lãnh thổ, từng vùng đất, gieo trồng, chăm bón cho nơi cư lưu (o#kos), hang ổ của chúng ta. Và ta đừng bao giờ quên đi ý nghĩa về tình thân hữu dành cho những người cũng đang chiếm giữ một nơi chốn riêng, những người đang thu mình lại trong cõi riêng của họ.
Đây là những gì mà Đạo lý (Ethos) có thể có nghĩa như một căn nguyên có khả năng tìm thấy cơ cấu tổ chức của nó, đẩy lùi lại những giới hạn vốn làm ta mất tự chủ trước thời giờ bận rộn, xa cách. Việc mở ra cho ta một khoảng thời gian là lúc mà sự tự cách ly dạy ta cách khám phá nó. Thế giới đã thay đổi. Virus đã làm ta hiểu rằng đời sống là độc địa. Sinh khí và độc địa tìm thấy mối liên hệ phổ biến của chúng trong một thế giới mà ta phải học cách để vượt qua mỗi mét vuông như một không gian vô tận. Điều này không xuất hiện trên sao Hỏa, tương lai rồi sẽ tốt đẹp hơn, nhưng ở trong một hành trình khủng khiếp hơn, trong một sự trải mở mênh mông hơn, ngay đây và bây giờ, trong một nơi chốn mà ta đang tái khám phá, và là nơi mà trại tế bần cùng lòng hiếu khách sẽ cần đến một phương thức tồn tại mới. Tất nhiên điều này sẽ không thể làm ta thôi nhìn về những vì sao.
Tuệ Đan lược dịch từ La vie après le confinement
Nguồn: diacritik.com (23/03/2020).
(TCSH374/04-2020)
TRẦN THÙY MAI.Năm giờ sáng, máy bay chở chúng tôi đáp xuống sân bay Incheon. Giọng nói ngọt ngào của nữ tiếp viên vang lên với lời cảm ơn và câu chào tạm biệt, sau khi báo một thông tin làm chúng tôi ớn lạnh: Nhiệt độ bên ngoài là 4 độ C...
ĐẶNG NHẬT MINHLà một thương cảng của Nhật Bản, nhưng Fukuoka lại được nhiều người biết đến như một thành phố của nhiều hoạt động văn hoá mang tầm quốc tế. Tôi có duyên nợ với thành phố này từ năm 1991 khi được mời tham dự Liên hoan phim quốc tế Fukuoka lần thứ nhất với bộ phim Bao giờ cho đến tháng 10.
PHẠM XUÂN PHỤNGChữ tea trong tiếng Anh là do dùng mẫu tự La -tinh để ký âm chữ trà (âm Hán Việt) mà người Trung Hoa nói rất rõ là chè. Lâu nay cứ tưởng chè là tiếng thuần Việt hoặc là biến âm của trà, hóa ra chè lại là từ gốc của trà. Mẹ mà nhầm là con, vui thật.
BÙI NGỌC TẤNLần đầu tiên đặt chân tới Châu Âu, có biết bao nhiêu ấn tượng. Ấn tượng về những nét mặt người, về những dáng người đi, về bầu trời không vẩn bụi trong veo, về những xa lộ, về những chiếc xe phóng với tốc độ 140 kilômét không một tiếng còi, nối nhau trên các con đường tám đến mười làn xe chạy không còn biên giới cách ngăn...
NGUYỄN VĂN DŨNGCó người nói Praha đẹp hơn Paris . Tôi không tin. Nhưng bây giờ thì tôi thấy nhận xét ấy không phải không có căn cứ. Praha là thành phố cổ kính nguyên vẹn nhất châu Âu, là “thành phố của trăm tháp vàng”, là “bài thơ bằng đá”, là khúc hát đắm say, là cốc rượu nồng nàn, là bức tranh tuyệt mĩ, là mảnh thời gian còn sót lại... Năm 1992, Praha được công nhận là di sản văn hoá thế giới.
PHẠM THỊ CÚCCó người nghĩ rằng, ở các nước giàu, thì ít người thất nghiệp. Không đâu, ở Pháp, người thất nghiệp cũng khá nhiều, mà đâu phải vì không có bằng cấp mà thất nghiệp, đa số họ đều có bằng kĩ sư, cử nhân, cả thạc sĩ hẳn hoi.
NGUYỄN VĂN DŨNGAmazon là tên khu rừng lớn nhất thế giới. Amazon cũng là tên con sông, theo khảo sát mới đây, là con sông dài nhất thế giới. Amazonas, quê hương của hai Amazon kia, là bang rộng nhất trong 26 tiểu bang của Brasil - rộng hơn cả diện tích của nước Anh, Đức, Pháp, Ý cộng lại. Còn Manaus, là kinh đô của Amazonas miên man núi rộng sông dài.
NGUYỄN VĂN DŨNG Tôi thật sự xúc động khi đứng trước ngôi mộ của Lý Tiểu Long. Trước đây tôi hình dung nơi an nghỉ cuối cùng của anh phải là một ngôi đền cực kỳ tráng lệ cho xứng với tên tuổi lẫy lừng của anh. Sau khi anh mất, một tờ báo ở Sài Gòn hồi đó viết đại loại trong thế kỷ XX, anh là một trong ba nhân vật nổi tiếng nhất châu Á.
NGUYỄN VĂN DŨNGVới Phật giáo, Linh Thứu là ngọn núi thiêng. Sau khi thành đạo, một thời gian dài Linh Thứu là trú xứ của đức Phật và các đệ tử của Ngài. Tại đây Ngài đã giảng kinh Pháp Hoa và nhiều bộ kinh quan trọng khác. Linh Thứu còn là nơi khởi phát dòng Thiền Ấn Độ để rồi từ đây hạt giống Thiền được gieo trồng khắp nơi trên trái đất.
PHẠM PHÚ PHONGTrong lịch sử đất nứơc Trung Hoa có sáu nơi được chọn làm thủ đô, theo thứ tự Lạc Dương, Tây An, Nam Kinh, Khai Phong, Hàng Châu và Bắc Kinh là thủ đô thứ sáu, tồn tại cho đến ngày nay. Bắc Kinh đầu tiên là kinh đô của nước Yên, nên còn gọi là Yên Kinh, sau đó đến thời Minh Thành Tổ cho xây dựng trở thành Bắc Kinh ngày nay. Với diện tích 18.826 km2, Bắc Kinh rộng gấp 18 lần so với thủ đô Hà Nội, được mệnh danh là thành phố bốn nhiều: nhiều người, nhiều xe, nhiều cầu vượt, nhiều di tích...
Từ một trại lính đầy vết đạn ở vùng California (Hoa Kỳ) đã xuất hiện một tu viện Phật giáo - Tu viện Lộc Uyển - do nhà sư gốc Huế - Thiền sư Thích Nhất Hạnh - gầy dựng. Tại đây, ảnh hưởng của Thiền học Việt Nam đã tạo được một sự chuyển hóa đầy thử thách: biến trung tâm luyện tập bắn súng trở thành thiền đường đầy ánh sáng và tình thương, có ảnh hưởng rất lớn đối với nhiếu người ở Hoa Kỳ.Sông Hương xin giới thiệu bài viết của Teresa Wattanabe đã đăng trên tờ Los Angeles Times, tờ nhật báo lớn hạng ba của Hoa Kỳ, với bản dịch của Làng Mai và ảnh của Nguyễn Đắc Xuân để giới thiệu với bạn đọc như một dòng chảy của văn hóa Phật giáo xứ Huế.
TRẦN THÙY MAICác quan chức ngành khí tượng Nhật Bản đã cúi gập mình xin lỗi toàn dân: Hoa anh đào sẽ nở ngày 23 thay vì 16 - 3 như dự báo. Đến sân bay Narita vào đúng sáng 24, tôi tự nghĩ mình đến rất kịp thời, nên khi cậu cảnh sát làm thủ tục nhập cảnh hỏi về mục đích đến Nhật, tôi đã không ngần ngại trả lời chắc nịch: “Ngắm hoa anh đào”. Cậu cảnh sát khoanh cái rụp vào lời khai của tôi và “OK” ngay với một nụ cười trên môi.
NGUYỄN VĂN DŨNGNằm giữa trung tâm bán đảo Iberia, thủ đô Tây Ban Nha trải rộng trên các ngọn đồi dưới chân rặng Sierra de Guadarrama, ở độ cao 640m so với mặt nước biển - là thành phố cao nhất châu Âu. Diện tích 607 km2. Dân số gần 4 triệu người.
KEVIN BOWEN
(Giám đốc WJC)
LTS: Trong 25 năm qua tên tuổi nhiều nhà văn, nhà thơ của Trung tâm William Joiner (Đại học Massachusetts - Hoa Kỳ) như Kevin Bowen, Fred Marchant, Nguyễn Bá Chung, Lady Borton, Martha Colline, Bruce Weigl, Lary Heinemann... đã xuất hiện trên Sông Hương cũng như trên nhiều báo chí văn nghệ, văn hoá trong nước với những tác phẩm tâm huyết, mến yêu đất nước Việt Nam cũng như những hoạt động trên các lãnh vực giao lưu văn hoá, giúp đỡ y tế, giáo dục cho Việt Nam sau chiến tranh, như những biểu hiện của sự ân hận, tủi hổ với những gì mà đất nước họ đã gây ra trên mảnh đất này.
NGUYỄN BÁ CHUNG
Tháng 10 năm 2007 đánh dấu 25 năm thành lập trung tâm Joiner. Nhưng với tôi, nó đánh dấu một đoạn đường 20 năm nổi chìm với trung tâm, trong đó có 15 năm làm thiện nguyện và 10 năm cuối cùng làm việc chính thức. Hai mươi năm là một thời gian dài đủ để nhìn lại, ghi lại một số kỷ niệm và rút ra một số kinh nghiệm để nhìn tới đoạn đường phía trước.
NGUYỄN ĐẮC XUÂNHoạt động yêu nước ở miền Nam từ những năm sáu mươi của thế kỷ trước, tôi không lạ gì nước Mỹ. Thuở ấy, Phan Ch. anh bạn vong niên của tôi làm phiên dịch ở cơ quan MACV ở Huế từng bảo tôi “Người Mỹ giống như một cậu bé con nhà giàu nhưng thiếu lễ độ”.
VÕ QUÊNhận lời mời của Hội đồng quốc gia vì nghệ thuật truyền thống Hoa Kỳ (National Council for the Traditional Arts), đoàn nghệ sĩ thuộc Hội Văn học nghệ thuật Thừa Thiên Huế đã tham dự Festival dân ca dân nhạc tại thành phố Lowell, bang Massachusetts, Hoa Kỳ từ ngày 25-7-1995.
NGUYỄN XUÂN THÂMChúng tôi đến Aten vào cuối tháng chín, mà buổi trưa vẫn còn oi bức như bao trưa miền biển ở Việt . Thanh Tùng và tôi loay hoay mãi vẫn không bắt được taxi để chuyển tiếp đến sân bay nội địa.
NGUYỄN VĂN DŨNGSau Cali tôi định đi Dallas, nhưng rồi chuyển hướng, tôi lên Seattle theo vẫy gọi của bạn bè. Ai ngờ cái thành phố nầy dịu dàng, xanh và đẹp đến vậy. Hèn chi người ta gọi nó là “Thành phố ngọc bích” ( Emerald City ), hay “Mãi mãi xanh tươi” ( Evergreen State ).
PHẠM THƯỜNG KHANHĐầu năm nay khi biết tôi chuẩn bị đi công tác Trung Hoa, em gái tôi, một người thơ gọi điện từ Huế ra bảo: “Anh cố gắng mà cảm nhận vẻ đẹp rực rỡ của văn minh Trung Hoa. Hình như với bệ phóng vững chắc của nền văn minh hàng ngàn năm ấy, người Trung Hoa đang có những cuộc bứt phá ngoạn mục và trong tương lai dân tộc này còn tiến xa hơn nữa”. Là một quân nhân, tôi đâu có được trí tưởng tượng phong phú và trái tim dễ rung động như em tôi, nhưng 10 ngày trên đất nước Trung Hoa đã để lại trong tôi những ấn tượng thật sâu đậm.