Hội Nhà báo Thừa Thiên Huế sắp tiến hành Đại hội Hội Nhà báo lần thứ V, nhiệm kỳ 2012 - 2017. Đây là lúc toàn thể các hội viên nhà báo đang tác nghiệp ở Thừa Thiên Huế nhìn lại một chặng đường đã qua, để cùng xác định những việc cần làm trong thời gian đến.
Hội viên Chi hội Nhà báo Báo Thừa Thiên Huế trong một buổi sinh hoạt nghiệp vụ nhằm nâng cao chất lượng tờ báo. Ảnh: baothuathienhue.vn
Toàn cảnh bức tranh báo chí
Hội Nhà báo Thừa Thiên Huế trước có 9 chi hội ở 9 cơ quan báo chí: Báo Thừa Thiên Huế, Đài Phát thanh - Truyền hình Thừa Thiên Huế (TRT), Trung tâm TH Việt Nam tại Huế (VTV Huế), Tạp chí Sông Hương, Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, Tạp chí Huế Xưa và Nay, Tạp chí Đại học Huế, Phân xã Thông tấn xã Việt Nam tại Huế, Đài truyền thanh thành phố Huế. Từ tháng 9/ 2011, VTV Huế chuyển sinh hoạt ra Hà Nội, Hội còn lại 8 chi hội. Bên cạnh đó, Hội còn bảo trợ cho CLB Nhà báo hưu trí và nhiều văn phòng các cơ quan báo chí trung ương cùng sinh hoạt.
Trong thời gian qua, báo chí Thừa Thiên Huế tỏ ra khá sôi động. Những lúc diễn ra các sự kiện chính trị, văn hóa lớn, các nhà báo đã xông xáo nắm bắt tình hình, phản ánh kịp thời. Nhiều nhà báo có trách nhiệm, đi đến những vùng sâu, vùng xa để có những bài viết nóng bỏng, ngồn ngộn chất sống. Vào mùa bão lũ, một bộ phận nhà báo đã không quản ngại nguy hiểm, dấn thân đến những vùng tâm bão, rốn lũ để ghi hình, viết bài, đưa tin kịp thời phục vụ công tác phòng chống, khắc phục hậu quả lụt bão. Nhiều hội viên nhà báo dũng cảm phản ánh những vấn đề mà cán bộ, nhân dân đặc biệt quan tâm, có mặt ở những điểm “nóng” để có những tác phẩm chất lượng. Đến nay ở Thừa Thiên Huế có 152 hội viên được Bộ Thông tin và Truyền thông cấp thẻ nhà báo. Bên cạnh đội ngũ này, còn có đông đảo những nhà báo cao tuổi, nhà nghiên cứu lịch sử, văn hóa, các nhà giáo, những người viết báo không chuyên đã thầm lặng tác nghiệp, tích cực tham gia cộng tác, thực hiện nhiều tác phẩm báo chí có chất lượng tốt.
Có thể khẳng định nhiệm kỳ IV vừa qua, báo chí Thừa Thiên Huế đã có những bước phát triển và trưởng thành nhiều mặt, vừa làm tốt nhiệm vụ công tác mà Đảng, Nhà nước, và ngành giao, vừa định hướng tuyên truyền, vừa cung cấp một khối lượng lớn những thông tin, những kiến thức bổ ích, góp phần giữ ổn định chính trị, bảo tồn các giá trị văn hóa, thúc đẩy sự phát triển kinh tế không ngừng của tỉnh Thừa Thiên Huế.
Tuy đạt được một số thành tựu, song trước những yêu cầu đổi mới của Thừa Thiên Huế thì báo chí của tỉnh nhà còn những mặt hạn chế đó là:
Vẫn còn một số thông tin trên báo chí thiếu chính xác. Các phóng sự, điều tra, bài phản ánh một số lĩnh vực còn thiếu sinh động. Tin tức mang tính lễ tân, công báo vẫn chiếm tỉ lệ lớn. Báo viết còn nhiều sai sót trong công tác biên tập, báo hình thì một số phát thanh viên lên hình thiếu nghiêm túc, phong cách thể hiện thiếu thuyết phục. Quảng cáo một số chương trình báo hình chưa thật sự được biên tập chặt chẽ, có khi bị lợi dụng gây ảnh hưởng lớn đến đời sống xã hội.
Trách nhiệm xã hội, nghĩa vụ công dân, đạo đức nghề nghiệp của một số nhà báo đang có chiều hướng suy giảm. Một bộ phận nhà báo tay nghề còn yếu, dễ dãi trong tác nghiệp. Một số nhà báo còn viết báo theo lối salon. Công tác đấu tranh chống các biểu hiện tiêu cực, tham nhũng, lãng phí, quan liêu, mất dân chủ… của các báo, đài có phần còn hạn chế, chưa đáp ứng được sự mong mỏi của công chúng.
Hội Nhà báo - nơi gặp gỡ
Trong nhiệm kỳ qua, Hội Nhà báo Thừa Thiên Huế và các Chi hội cơ sở đã bám sát các nghị quyết, chỉ thị của Đảng về công tác báo chí, về hoạt động của Hội Nhà báo và Nghị quyết Đại hội VIII, Đại hội IX Hội Nhà báo Việt Nam, Nghị quyết Đại hội IV Hội Nhà báo Thừa Thiên Huế, không ngừng đổi mới nội dung và hình thức hoạt động, hoàn thành nhiệm vụ do Đại hội IV Hội Nhà báo tỉnh đề ra, góp phần tích cực và hiệu quả vào sự phát triển của báo chí Thừa Thiên Huế trong 5 năm qua.
Hội đã quán triệt đầy đủ các chỉ thị, nghị quyết của Đảng về công tác báo chí và về hoạt động của Hội Nhà báo Việt Nam. Triển khai dưới nhiều hình thức thực hiện cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” gắn với việc giáo dục đạo đức nghề nghiệp của người làm báo Việt Nam.
Hoạt động nghiệp vụ được xác định là một trong những trọng tâm của chương trình công tác toàn khóa. Hội đã thực hiện nghiêm túc đề án hỗ trợ sáng tạo tác phẩm báo chí chất lượng cao. Từ năm 2008 đến tháng 9/2012 đã có 171 tác phẩm xuất sắc được hỗ trợ đầu tư với gần 500 triệu đồng cho 200 lượt hội viên nhà báo. Đề án nâng Giải Báo chí của Hội thành Giải Báo chí của tỉnh Thừa Thiên Huế được Chủ tịch UBND tỉnh phê duyệt (ngày 27/5/2008) và thực hiện có hiệu quả qua 5 lần tổ chức.
Hội đã phối hợp với Trung tâm Bồi dưỡng Nghiệp vụ - Hội Nhà báo Việt Nam tổ chức nhiều lớp bồi dưỡng nghiệp vụ cho các nhà báo. Hội cũng đã chủ động tổ chức nhiều buổi gặp gỡ, trao đổi, đối thoại giữa lãnh đạo tỉnh, lãnh đạo một số ngành kinh tế, văn hóa với những người làm báo trên địa bàn: những vấn đề về phát triển kinh tế du lịch ở Thừa Thiên Huế; về thủy điện, về môi trường; về xây dựng nông thôn mới, về quy hoạch đô thị, đất đai; tổ chức tọa đàm khoa học những vấn đề xã hội và báo chí quan tâm; tổ chức giới thiệu sách, những tác phẩm báo chí hay v.v... Các buổi gặp gỡ đã thực sự bổ ích cho cả các nhà lãnh đạo, nhà quản lý và nhà báo. Từ năm 2008, tờ Đặc san Nhà báo Huế của Hội được Cục Báo chí của Bộ Thông tin và Truyền thông cấp giấy phép, mỗi năm từ 2 kỳ lên 4 kỳ.
Hội đã tích cực tham gia vào công tác chỉ đạo, quản lý báo chí, chủ động đóng góp ý kiến vào việc xây dựng các quy định liên quan đến hoạt động báo chí; duy trì các hoạt động của Trung tâm Thông tin báo chí. Từng kỳ Festival văn hóa, Festival chuyên đề, Trung tâm là một địa chỉ luôn diễn ra hoạt động nghiệp vụ sôi nổi của nhà báo các địa phương trong nước, nhà báo nước ngoài đến Huế tác nghiệp.
Hội luôn xác định việc bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng, hợp pháp của hội viên, kiên quyết đấu tranh các hành vi cản trở các nhà báo hoạt động đúng pháp luật. Trong 5 năm, Ban Kiểm tra của Hội đã can thiệp, bảo vệ quyền lợi cho 5 trường hợp (trong đó có 2 trường hợp nhà báo ở cơ quan báo chí TW) hội viên nhà báo bị cản trở khi tác nghiệp. Đồng thời đề nghị cơ quan báo chí xử lý 01 trường hợp vi phạm đạo đức nghề nghiệp.
Trong công tác đối ngoại, Hội đã trao đổi nghiệp vụ với trên 40 đoàn báo chí trong nước, với các đoàn nhà báo đến từ các nước Trung Quốc, Hàn Quốc, Thái Lan, Lào, Campuchia, Bỉ, Đan Mạch, Đại sứ quán Mỹ...
Việc phát triển hội viên được đẩy mạnh một bước, Hội đã làm thủ tục đề nghị Hội Nhà báo Việt Nam kết nạp thêm 52 hội viên mới. Tính đến tháng 9/2012, Hội Nhà báo tỉnh có 170 hội viên. Câu lạc bộ Nhà báo Hưu trí thành lập đã 10 năm, quy tụ gần 50 nhà báo, nhà văn tên tuổi.
Công tác đền ơn đáp nghĩa được chú trọng. Nhiệm kỳ qua, Hội Nhà báo tỉnh phối hợp với Chi hội Đài Phát thanh - Truyền hình tỉnh trao tặng một nhà tình nghĩa (trị giá 30 triệu đồng) cho gia đình liệt sĩ Thái Văn Chái ở xã Phong Xuân, huyện Phong Điền; phối hợp với Hội Nhà báo Hà Nội và Báo An ninh Thủ đô xây tặng một trường mẫu giáo ở xã Phong Xuân cùng nhiều thiết bị học tập khác cho các cháu, trị giá gần 100 triệu đồng. Thông qua Báo An ninh Thủ đô, Tết năm 2010, Hội đã vận động và được tập đoàn Vincom tặng 500 suất quà tết cho 500 hộ nghèo ở hai xã Phong Xuân và Phong Sơn, huyện Phong Điền, trị giá 250 triệu đồng.
Kết quả thực hiện các chỉ tiêu chủ yếu: Hoàn thành 7/8 chỉ tiêu, có 1 chỉ tiêu chưa hoàn thành đó là việc biên soạn “Lịch sử báo chí Thừa Thiên Huế”.
Những điểm còn hạn chế của công tác Hội đó là còn một số Chi hội cơ sở chưa thực sự đổi mới nội dung và phương thức hoạt động, ý thức xây dựng hội của một số hội viên chưa cao. Vai trò tư vấn, phản biện của Hội đối với những vấn đề liên quan đến hoạt động báo chí còn yếu. Việc đấu tranh ngăn chặn và khắc phục những biểu hiện yếu kém về nghề nghiệp và giảm sút đạo đức của một số nhà báo còn hạn chế. Những yếu kém trên đã ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển của báo chí tỉnh Thừa Thiên Huế trong nhiệm kỳ qua.
Từ thực tiễn những thành tựu cũng như hạn chế, yếu kém trong công tác Hội Nhà báo và hoạt động báo chí nhiệm kỳ qua, có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm sau đây:
Hội Nhà báo tỉnh là tổ chức chính trị - xã hội - nghề nghiệp có tính đặc thù của những người làm báo Việt Nam tỉnh Thừa Thiên Huế, vì vậy hoạt động của Hội phải luôn bám sát sự lãnh đạo của Tỉnh ủy, HĐND, UBND tỉnh, phải quán triệt tinh thần thực hiện “Quy định đạo đức nghề nghiệp của người làm báo Việt Nam”. Quyết định thành công trong hoạt động Hội là sự đoàn kết, nhất trí trong Hội. Điều quan trọng là hội viên phải tự giác, tích cực tham gia, đề cao trách nhiệm, nghĩa vụ của hội viên đối với Hội Nhà báo tỉnh và Chi hội cơ sở. Gắn hoạt động Hội, hoạt động báo chí với các hoạt động xã hội.
Tầm nhìn nhiệm kỳ tới
Đại hội nhiệm kỳ V của Hội Nhà báo Việt Nam tỉnh Thừa Thiên Huế diễn ra trong không khí cả nước đẩy mạnh công cuộc đổi mới, toàn tỉnh đang nỗ lực hoàn thành thắng lợi các nhiệm vụ chính trị, kinh tế xã hội của tỉnh, xây dựng và phát triển sự nghiệp báo chí Thừa Thiên Huế ngang tầm của thời kỳ mới. Giới báo chí và Hội Nhà báo Thừa Thiên Huế phấn đấu tạo chuyển biến tích cực, mạnh mẽ nhằm động viên cán bộ, nhân dân đẩy mạnh các phong trào thi đua yêu nước xây dựng tỉnh Thừa Thiên Huế ngày càng vững mạnh, văn minh, góp phần đưa Thừa Thiên Huế trở thành thành phố trực thuộc Trung ương.
Trong mục tiêu chung đó, phương hướng hoạt động của Hội Nhà báo tỉnh nhiệm kỳ V là nâng cao hơn nữa vai trò, chất lượng hoạt động Hội, tập hợp, đoàn kết các hội viên; nâng cao trình độ chính trị và năng lực nghiệp vụ của các nhà báo để đóng góp cùng tỉnh hoàn thành các mục tiêu kinh tế - xã hội, giữ gìn bản sắc văn hóa Huế, văn hóa Việt Nam, xây dựng tỉnh Thừa Thiên Huế đẹp giàu, vững mạnh.
Để làm được điều đó, cần phải kiện toàn tổ chức, nâng cao năng lực công tác của cán bộ Hội Nhà báo tỉnh và các Chi hội cơ sở. Đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động của Hội đồng Giải Báo chí, Hội đồng tuyển chọn tác phẩm báo chí. Nâng cao và mở rộng Giải Báo chí của tỉnh, phối hợp với các sở, ban ngành tổ chức các giải báo chí chuyên ngành; tổ chức có hiệu quả hoạt động của Câu lạc bộ Nhà báo Hưu trí và tiếp tục thành lập thêm một số câu lạc bộ mới (CLB nhà báo trẻ, ảnh báo chí, nhà báo nữ). Tìm mọi nguồn lực trong tỉnh, trong nước nhằm bồi dưỡng nghiệp vụ cho đội ngũ nhà báo. Nâng cao hơn nữa chất lượng nội dung, hình thức Đặc san Nhà báo Huế, tổ chức khởi thảo viết cuốn “Lịch sử báo chí Thừa Thiên Huế”.
Đại hội lần thứ V Hội Nhà báo Thừa Thiên Huế vui mừng với những thành tựu đã thực hiện được trong nhiệm kỳ vừa qua, quyết tâm khắc phục những hạn chế, thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội nhiệm kỳ V được cụ thể hóa bằng chương trình hoạt động, tạo chuyển biến tích cực, mới mẻ, sôi động trong đời sống báo chí; nâng cao chất lượng, xây dựng đội ngũ người làm báo Thừa Thiên Huế ngang tầm với những yêu cầu của thời kỳ mới.
Nhà Báo Huế
(SH285/11-12)
Trí thức là những người mà lao động hàng ngày của họ là lao động trí óc, sản phẩm của họ làm ra là những sản phẩm trí tuệ, nhưng sản phẩm ấy phải là những sản phẩm có ích cho xã hội...
Ở Huế ngày xưa, người học trò nào cũng có một “Tủ sách Học trò” riêng tư cho mình và nhà nào cũng có một “Tủ sách Gia đình” để dùng chung trong nhà. Người Huế rất trọng học vấn, rất trọng sự hiểu biết nên rất trọng sách. Vì vậy, họ cất sách rất kỹ. Họ thường cất sách để làm kỷ niệm riêng tư cho mình về sau đã đành mà họ còn cất sách để dành cho đám đàn em con cháu của họ trong gia đình, dùng mà học sau nầy. Người Huế nào cũng đều cùng một suy nghĩ là ở đời, muốn vươn lên cao thì phải học và đã học thì phải cần sách. Đối với họ, sách quý là vậy. Lễ giáo Khổng Mạnh xưa cũng đã đòi hỏi mỗi người Huế thấy tờ giấy nào rớt dưới đất mà có viết chữ Hán “bên trên” là phải cúi xuống lượm lên để cất giữ “kẻo tội Trời”! Người xưa cũng như họ, không muốn thấy chữ nghĩa của Thánh hiền bị chà đạp dưới chân.
1. Trung tâm văn hóa tôi muốn đề cập ở đây là thành phố Huế của tỉnh Thừa Thiên Huế. Đã là một Trung tâm văn hóa thì bao giờ cũng quy tụ nhiều nhân tài lớn, trên nhiều lĩnh vực, từ mọi miền đất nước, thậm chí từ cả ngoài nước, trải qua nhiều thế hệ, nhiều thử thách khó khăn mới vun đắp lên nổi một truyền thống, mà có được truyền thống văn hóa lại càng khó khăn hơn. Trong bài viết này tôi chưa đề cập tới những nhà khoa học, những nhà văn hóa và văn nghệ sĩ xuất sắc đang sống và hoạt động tại Thừa Thiên Huế, mà tôi chỉ muốn nói tới chủ yếu các vị đã qua đời nhưng đã để lại dấu ấn sâu đậm, lâu dài cho mảnh đất này, góp phần quan trọng hình thành nên truyền thống văn hóa Huế.
Trên thế giới có nhiều nền văn hóa khác nhau. Trong mỗi nước, ngoài mẫu số chung về nền văn hóa của cả dân tộc, còn có văn hóa vùng miền được phân định căn cứ vào đặc điểm nhân văn riêng của từng nơi. Nơi nào có được tính cách nhân văn đặc thù thì nơi ấy có văn hóa địa phương hay văn hóa bản địa. Một từ mà các nhà văn hóa học năng sử dụng khi đề cập đến lĩnh vực này là “bản sắc”. Nếu dùng từ bản sắc làm tiêu chí để nhận diện văn hóa thì Việt Nam có nền văn hóa riêng của mình, trong đó có văn hóa Huế.
Tôi quê Hà Tĩnh, nhưng lại sinh ra ở Huế, khi ông cụ tôi ngồi ghế Phủ Doãn, tức là “sếp” cái cơ quan đóng bên bờ sông Hương ở giữa Bệnh viện Trung ương Huế và Trường Hai Bà Trưng - Đồng Khánh xưa, nay đang được xây dựng to đẹp đàng hoàng gấp nhiều lần ngày trước. (Thời Nguyễn phong kiến lạc hậu, nhưng lại có quy chế chỉ những người đậu đạt cao và thường là người ngoại tỉnh mới được ngồi ghế Phủ Doãn để vừa có uy tín, học thức đối thoại được với quan chức trong Triều, vừa tránh tệ bênh che hay cho người bà con họ hàng chiếm giữ những chức vụ béo bở. Nói dài dòng một chút như thế vì nhiều bạn trẻ thời nay không biết “Phủ Doãn” là chức gì; gọi là “Tỉnh trưởng” cũng không thật đúng vì chức Phủ Doãn “oai” hơn, do Huế là kinh đô, tuy quyền hành thực sự người Pháp nắm hầu hết).
*Từ tâm thức kính sợ trời đất đến lễ tế Giao: Từ buổi bình minh của nhân loại, thiên nhiên hoang sơ rộng lớn và đầy bất trắc, với những hiện tượng lạ kỳ mưa gió, lũ lụt, sấm chớp, bão tố... đã gieo vào lòng người nhiều ấn tượng hãi hùng, lo sợ. Bắt nguồn từ đó, dần dần trong lịch sử đã hình thành tập tục thờ trời, thờ đất, thờ thần linh ma quỷ. Đó là nơi trú ẩn tạo cảm giác an toàn cho con người thuở sơ khai. Ở phương Đông, tập tục thờ cúng trời đất, thần linh gắn liền với việc thờ cúng tổ tiên, ông bà, phổ biến từ trong gia đình đến thôn xóm, làng xã. Khi chế độ quân chủ hình thành, một số triều đình đã xây dựng những “điển lệ” quy định việc thờ cúng trời đất, thần linh, với những nghi thức trang trọng, vừa biểu thị quyền uy tối thượng của nhà vua, vừa thể hiện khát vọng mong cầu quốc thái dân an, thiên hạ thái bình, phong hoà vũ thuận của muôn dân.
Sông Hương thuộc loại nhỏ của Việt Nam, nhưng với Thừa Thiên Huế có thể nói là “tất cả”. Hệ thống sông Hương cung cấp nước, tạo môi trường để phát triển gần như toàn bộ nền kinh tế - xã hội của Thừa Thiên Huế, đặc biệt sông Hương còn là biểu tượng của Huế, hai bên bờ mang nặng di sản văn hoá nhân loại. Nhưng đồng thời nó cũng đưa lại những trận lụt lớn vào mùa mưa, nhiễm mặn vào mùa hè...
Huế được Chính phủ xác định là một trong 5 thành phố cấp quốc gia, nằm trong khu vực kinh tế trọng điểm của miền Trung, cơ cấu kinh tế từng bước chuyển dịch theo hướng công nghiệp, dịch vụ du lịch. Quá trình phát triển đô thị, Huế đồng thời cũng đứng trước những thử thách mới, còn nhiều bất cập nhưng Huế vẫn giữ được nét kiến trúc riêng. Hình ảnh một thành phố mà kiến trúc và thiên nhiên hoà quyện, phải chăng đó là bản sắc Huế, khó trộn lẫn với bất kỳ một đô thị nào khác trong cả nước.
I. Toàn cầu hóa và lý luận văn học: I.1. “Toàn cầu hóa” làm cho “thế giới trở nên phẳng” (Thomas F.Fredman). Lý luận văn học là một lĩnh vực khoa học nhằm cắt nghĩa, lý giải, khái quát văn chương, đặt trong khung cảnh đó, nó cũng được “thế giới hóa”, tính toàn cầu hóa này tạo nên một mặt bằng chung, hình thành một ngôn ngữ chung. Từ đó mới có sự đối thoại, tiếp biến học hỏi lẫn nhau giữa các nền lý luận của các châu lục, quốc gia tạo nên một thể thống nhất trong đa dạng.
Đêm Nguyên tiêu 15 tháng giêng Quý Mùi 2003, thực hiện chủ trương của Hội Nhà văn Việt Nam, Hội Văn học Nghệ thuật Thừa Thiên Huế, Chi hội Nhà văn Việt Nam tại TTH đã tổ chức trên sông Hương một đêm thơ rất tuyệt vời. Ban tổ chức cho biết Hội Nhà văn Việt Nam đã được phép quyết định kể từ năm nay lấy ngày 15 tháng giêng âm lịch hằng năm làm Ngày Thơ Việt Nam. Quyết định ấy lay động tâm trí tôi vốn đang ưu tư với Huế Thành phố Festival, thay vì đọc thơ, trong đêm Nguyên tiêu ấy tôi đã phác họa sơ lược về một Festival thơ. Không ngờ ý kiến của tôi được Đêm thơ Nguyên tiêu hưởng ứng và các nhà thơ đã đề nghị tôi nên thực hiện một Hồ sơ cho Festival Thơ.
Trí thức trong bất cứ thời đại nào và ở đâu cũng là một nguồn lực quan trọng, là sức mạnh tinh thần nối kết truyền thống của dân tộc với thành tựu trí tuệ của thời đại. Khi nguồn lực trí tuệ của đội ngũ trí thức gắn kết được với sức mạnh cộng đồng thì xã hội sẽ có những chuyển biến tích cực. Ngược lại, nguồn lực trí tuệ không được phát huy thì năng lực phát triển của xã hội sẽ bị suy thoái. Thừa Thiên Huế có một thời là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá của Đàng Trong và trở thành kinh đô của cả nước. Vì thế Huế đã từng là nơi hội tụ nhiều thế hệ trí thức tinh hoa của đất nuớc. Lớp trí thức lớn lên tại Thừa Thiên Huế có điều kiện tiếp cận với những thiết chế và sinh hoạt văn hoá, học thuật có tầm cở quốc gia (Quốc Tử Giám, Quốc Sử Quán, Hàn Lâm Viện, Thái Y Viện. Khâm Thiên Giám.. ), năng lực trí tuệ của trí thức ở kinh kỳ có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển, cả trên lĩnh vực tư duy sáng tạo và quản lý, thực hành.
I. Sự hình thành và phát triển hệ thống đường phố ở Huế: Trước khi Huế được chọn để xây dựng kinh đô của nước Việt Nam thống nhất, đất Phú Xuân - Huế kể từ năm 1738 đã là nơi đóng đô thành văn vật của xứ Đàng Trong dưới thời chúa Nguyễn Phúc Khoát. Rồi Phú Xuân lại trở thành kinh đô Đại Việt của nhà Tây Sơn. Năm 1802, Nguyễn Phúc Ánh toàn thắng quân Tây Sơn; từ Thăng Long ông trở về Phú Xuân, chọn lại đất ấy, lấy ngày lành, lên ngôi vua, xưng hiệu là Gia Long. Tháng 5 năm 1803, nhà vua sai người ra ngoài bốn mặt thành Phú Xuân, xem xét thực địa, định giới hạn để xây dựng kinh thành mới. Trên cơ sở mặt bằng thành Phú Xuân cũ, lấy thêm phần đất của 8 làng cổ lân cận, mở rộng diện tích để xây dựng nên một kinh thành rộng lớn hơn trước. Cùng với việc xây dựng thành quách, cung điện, nha lại, sở ty... thì đường sá trong kinh thành cũng được thiết lập.
Thừa Thiên Huế là thủ phủ Đàng Trong thời các chúa Nguyễn, là kinh đô của cả nước dưới thời Tây Sơn và triều Nguyễn, nay là cố đô, một trong những trung tâm văn hoá và du lịch quan trọng của Việt Nam , trải qua quá trình đô thị hoá, vừa mang dấu ấn của một đô thị cổ phương Đông, vừa có đặc trưng của một đô thị mới. Để góp phần định hướng phát triển và tổ chức quản lý vùng đất nầy, một trong những việc cần làm là nên soát xét lại kết quả của quá trình đô thị hóa để lựa chọn những giải pháp quản lý phù hợp.
Trong quá khứ, mảnh đất Phú Xuân - Huế đã được chọn để đóng đô thành của các chúa Nguyễn ở Đàng Trong, rồi đến kinh đô Đại Việt của nhà Tây Sơn Nguyễn Huệ, sau nữa là kinh đô Việt Nam thống nhất dưới thời họ Nguyễn Phúc trị vì và cuối cùng trở thành cố đô từ sau Cách mạng Tháng 8.1945. Huế đã và đang là thành phố Festival - một thành phố lễ hội mang nhiều thành tố văn hóa đặc trưng của Việt Nam theo một quy chế đặc biệt. Để có cái nhìn khách quan về lịch sử, thiết nghĩ, chúng ta hãy điểm lại vài nét quá trình đi lên của thành phố Huế để trở thành đô thị loại I - đô thị đặc biệt hôm nay.
Hội nghị cán bộ Việt Minh mở rộng vào cuối tháng 4 đầu tháng 5/1945 diễn ra trên đầm Cầu Hai đề ra chủ trương lớn để phát triển phong trào cách mạng tỉnh Thừa Thiên Huế, chuẩn bị cùng cả nước khởi nghĩa cướp chính quyền khi có thời cơ. Sau hội nghị, phong trào cách mạng phát triển đều khắp trong toàn tỉnh. Đầu tháng 8, được tin quân đội Nhật bị quân đồng minh đánh bại ở nhiều nơi, nhất là ở Mãn Châu Trung Quốc, Thường vụ Việt Minh dự đoán ngày Nhật theo chân phát xít Đức bị đánh bại không còn xa, đã quyết định đẩy mạnh chuẩn bị khởi nghĩa. Giữa tháng 8 được tin Nhật Hoàng sẵn sàng đầu hàng, Thường vụ Việt Minh chỉ đạo các huyện khởi nghĩa. Sau khi tất cả các huyện phụ cận Huế khởi nghĩa thành công, ngày 20/8 Thường vụ Việt Minh triệu tập 6 huyện bàn quyết định chọn ngày 23.8.1945 là ngày khởi nghĩa giành chính quyền. Cũng ngay chiều ngày 20.8.1945 phái đoàn Trung ương có cụ Hồ Tùng Mậu, anh Nguyễn Duy Trinh và anh Tố Hữu đã đến Huế, vì Huế là thủ đô của chính quyền bù nhìn lúc bấy giờ. Khởi nghĩa ở Huế mang sắc thái đặc biệt có tính chất quốc gia. Ta giành lại chính quyền không phải từ tay một tỉnh trưởng mà là từ triều đình nhà Nguyễn - Bảo Đại ông vua cuối cùng, bên cạnh Bảo Đại lại có cả bộ máy chính quyền Trần Trọng Kim do Nhật lập ra. May mắn thay đoàn phái bộ Trung ương vào kịp thời nên vẫn giữ nguyên ngày khởi nghĩa (23.8.1945). Đêm 20.8.1945 cuộc họp của phái đoàn Trung ương và Thường vụ Tỉnh ủy thông qua kế hoạch khởi nghĩa của tỉnh và cử ra Ủy ban khởi nghĩa gồm có: anh Tố hữu là Chủ tịch đại diện cho Trung ương, tôi làm Phó Chủ tịch (PCT) đại diện cho Đảng bộ và Mặt trận Việt Minh địa phương cùng một số ủy viên: Lê Tự Đồng, Lê Khánh Khang, Hoàng Phương Thảo, Nguyễn Sơn...
Ba mươi năm trước, cùng với lực lượng cách mạng, những người làm Báo Cờ Giải Phóng của Đảng bộ Thừa Thiên Huế sôi nổi chuẩn bị số báo đặc biệt và có mặt trong đoàn quân tiến về giải phóng quê hương. Tháng 10/1974, chúng tôi được tham gia hội nghị Tỉnh ủy mở rộng bàn về đẩy mạnh nhiệm vụ đánh kế hoạch bình định, mở rộng vùng giải phóng nông thôn đồng bằng, phối hợp có hiệu quả với các chiến trường, góp phần giải phóng miền Nam, Thường vụ Tỉnh ủy giao nhiệm vụ cho Báo Cờ Giải Phóng ra số báo đặc biệt, nội dung phong phú, hình thức hấp dẫn để chuyển tải khí thế cách mạng miền Nam và trong tỉnh, đưa mệnh lệnh, lời kêu gọi của Mặt trận Dân tộc Giải phóng Thừa Thiên Huế và các chính sách của Mặt trận đối với vùng giải phóng.
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước vĩ đại của dân tộc, lực lượng an ninh huyện Phú Vang đã nêu cao chủ nghĩa anh hùng cách mạng, với 95 thương binh, 135 liệt sĩ và không có một cán bộ, chiến sĩ nào đầu hàng phản bội, lực lượng an ninh huyện Phú Vang và 4 cán bộ an ninh huyện đã được Đảng, Nhà nước phong tặng danh hiệu cao quý “Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân”.
Trong mọi thời đại Hoàng đế và kẻ sĩ có mối quan hệ đặc biệt. Đó là mối quan hệ giữa người cầm quyền và người trí thức có nhân cách và tài năng. Khi Hoàng đế là minh quân thì thu phục được nhiều kẻ sĩ, khi Hoàng đế là hôn quân thì chỉ có bọn xu nịnh bất tài trục lợi bên mình còn kẻ sĩ bị gạt ra ngoài thậm chí có khi bị giết hại. Lịch sử bao triều đại đã chứng minh điều đó. Mối quan hệ giữa Hoàng đế Quang Trung Nguyễn Huệ và La Sơn Phu tử Nguyễn Thiếp của thế kỷ XVIII là cuộc hội ngộ lớn, mang đến nhiều lợi ích cho quốc gia và có ý nghĩa cho muôn đời. Nguyễn Huệ và Nguyễn Thiếp đều sống trong bối cảnh triều Lê suy tàn, chúa Trịnh lộng hành, chúa Nguyễn mới nổi dậy. Sau gần 300 năm hết nội chiến Lê Mạc đến Trịnh Nguyễn phân tranh đời sống nhân dân vô cùng khốn khổ. Trong bối cảnh đó Nguyễn Huệ cùng anh là Nguyễn Nhạc dựng cờ khởi nghĩa, Nguyễn Thiếp cáo quan về ở ẩn.
Năm 2008 là một năm khá kỳ lạ và đặc biệt của loài người. Nửa năm đầu, cả nhân loại thăng hoa với các chỉ số chi tiêu mà ngay cả các chiến lược gia kinh tế cũng phải bàng hoàng. Nửa năm cuối, quả bóng phát triển, ổn định bị lưỡi dao oan nghiệt của khủng hoảng đâm thủng nhanh đến nỗi hàng ngàn đại gia bị phá sản rồi, vẫn chưa lý giải nổi hai chữ “tại sao”. Bất ổn và đổi thay còn chóng mặt hơn cả sự thay đổi của những đám mây. Không phải ngẫu nhiên mà người Nhật lại chọn từ “thay đổi” (kanji) là từ của năm, vì B. Obama đã chiến thắng đối thủ bằng chính từ này (change)...
Bạn đọc thân mến! Hiệp hội Đo lường Thời gian quốc tế đã quyết định kéo dài thời gian của năm 2008 thêm 1 giây, và chúng ta đã chờ thêm 1 giây để đón chào năm mới. Sau thời khắc 23 giờ 59 phút 59 giây của ngày 31.12.2008, không phải là giây đầu tiên của năm mới mà phải sau thời khắc 23 giờ 59 phút 60 giây cùng ngày, năm 2009 - năm lẻ cuối cùng của thế kỷ 21, mới chính thức bắt đầu. Nhân loại đã có thêm một giây để nhìn lại năm cũ và bước sang năm mới. Và trong một giây thiêng liêng ấy, chắc chắn nhiều ý tưởng sáng tạo đã xuất hiện, nhiều tác phẩm nghệ thuật vừa hoàn tất, âm tiết cuối của câu thơ cuối một bài thơ vừa được nhà thơ viết xong và buông bút mãn nguyện. Cùng với ly rượu vang sóng sánh chúc mừng năm mới được nâng lên, cái đẹp, cái cao cả tiếp tục xuất hiện để phụng sự nhân loại và chắc chắn, những nụ hôn của tình yêu thương đã kéo dài thêm một giây đầy thiêng liêng để dư vị hạnh phúc còn vương mãi trên môi người.