Đổi mới, Sự nhốn nháo vĩ đại

15:36 16/04/2008
(Phát biểu ý kiến góp phần vào nội dung Đề án Nghị quyết về “Xây dựng đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH...” của Ban Tuyên giáo Trung ương).

Tình hình giới văn nghệ sĩ cũng như tình hình cả xã hội ta hiện nay có thể tóm gọn trong một từ: nhốn nháo. Nhưng, theo cách diễn đạt của một tác giả Việt đương đại, đây là một sự nhốn nháo vĩ đại (1). Vì sao lại nhốn nháo? Trước Đổi mới, trong thời kỳ Chủ nghĩa xã hội “cũ”, những sự o ép và gò bó khá phổ biến đã tạo ra  trong tâm lý người dân, đặc biệt trong giới nhân viên công chức một tâm quán xấu: sự phục tùng tự nguyện (và mù quáng). Với phong trào Đổi mới, tâm quán này bị phá vỡ và thế là nhốn nháo, những công chức vốn ngoan ngoãn nay không thể không tự hỏi: Cớ sao lại phải phục tùng một cách mù quáng và vô lý như vậy? Cùng với Đổi mới, kinh tế thị trường thâm nhập, tư hữu được khẳng định, những giá trị của cá nhân được đề cao, thế là có một sự đảo lộn về kỷ cương, về những giá trị và thứ bực, chỉ những sự đảo lộn này cũng đủ để tạo ra sự nhốn nháo. Vì sao lại nhốn nháo vĩ đại? Công cuộc Đổi mới đã thức tỉnh ở người dân ba bản năng vĩ đại của loài người: bản năng sống, bản năng tự do, bản năng mưu cầu hạnh phúc. Chủ nghĩa xã hội cũ đã dồn nén chúng nhưng chúng không bị cạn kiệt. Đuổi chúng ra khỏi cửa chính thì chúng chui vào cửa sổ. Không như ở Nga sau Cải tổ, ở Việt đến thời Đổi mới thì chúng còn đủ sức để bật lên mạnh mẽ, tạo ra sự nhốn nháo vĩ đại. Trong bản Tuyên ngôn độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh thì ba bản năng này được nâng lên thành quyền: quyền sống, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc…, những quyền này đã từng được khẳng định trong Tuyên ngôn độc lập Hoa Kỳ 1776. Nếu như mọi đường lối, chính sách biết nương theo ba bản năng này và nhân dân kiên quyết bảo vệ những quyền đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh trịnh trọng nêu lên trong Tuyên ngôn, chắc chắn sự nghiệp Đổi mới sẽ thành công rực rỡ. Trước bản Tuyên ngôn độc lập của Hồ Chí Minh đã có bài thơ “Nam quốc Sơn hà…” của Lý Thường Kiệt, bài Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi là những áng văn thực sự có ý nghĩa Tuyên ngôn độc lập. Vì sao trong bản Tuyên ngôn độc lập của Hồ Chí Minh tác giả không trích dẫn hai bản kia mà chỉ trích dẫn từ bản Tuyên ngôn Độc lập 1776 của Hoa Kỳ và bản Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền 1791 của Pháp. Chúng ta cần suy nghĩ về vấn đề này. Theo giả thuyết của tôi, Hồ Chí Minh không chỉ là một người yêu nước, thương dân, nếu chỉ có vậy, ông có thể bằng lòng với tư tưởng “ái quốc ưu dân” trong hai áng văn của Lý Thường Kiệt và  Nguyễn Trãi. Hồ Chí Minh còn là một chiến sĩ đấu tranh cho tự do, dân chủ, ông tha thiết với quyền sống, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc của con người, đây là những tư tưởng có ý nghĩa phổ quát nhân loại, tư tưởng Hồ Chí Minh có tầm phổ quát nhân loại. Tôi mong muốn các nhà văn, các nghệ sĩ Việt đặc biệt quan tâm đến vấn đề này. Chúng ta chưa có được những tác phẩm lớn như chúng ta mong muốn, phải chăng vì chúng ta bị cuốn hút vào những mô típ có tính chất thời sự, những chủ đề “bức xúc” của giai đoạn, quên đi mất cái tầm phổ quát nhân loại bao giờ cũng vẫy gọi những tâm hồn thực sự nghệ sĩ, không kể là trước đây sống ở Hà Nội hay Sài Gòn và hiện nay sống ở trong nước hay ngoài nước.

Chiến tranh chấm dứt ở Việt , vang dậy tiếng reo hò của những người đã vượt qua sông. Nhưng chả mấy chốc trước mắt chúng ta một con sông khác phải vượt qua. Lần trước, chúng ta vượt sông trong lửa đạn, chiến tuyến rạch đôi quá đỗi ác nghiệt; chúng ta vượt sông lần này trong sự “nhốn nháo vĩ đại”, có cơ xoá bỏ những “lằn” chiến tuyến… Lần vượt sông này là một thử thách lịch sử quá lớn lao và mới mẻ. Có khi “phải mò mẫm từng viên đá để qua sông”. Và, nói như trong một câu thơ của Thuỵ Kha: “Đất nước… phải trăn trở lột xác mình đứng dậy.” Hẳn là công chúng văn học nghệ thuật đương chờ đợi những tác phẩm văn nghệ lớn viết về Sự nhốn nháo vĩ đại” thời Đổi mới cũng như những trăn trở lột xác mình đứng dậy” ở mỗi người, mỗi tập thể và cộng đồng trong cuộc vượt sông lần này. Cũng không thể quên bức xúc xoá bỏ những “lằn chiến tuyến” trên bộ mặt, trong tâm hồn, trong tư duy và ngôn ngữ…, những vệt “lằn” này đã và đương làm xấu đi hình ảnh Việt Nam trước mắt của chính nhân dân ta và nhân dân thế giới.

HOÀNG NGỌC HIẾN
(nguồn TCSH số 230 - 04- 2008)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • XUÂN NGUYÊNHơn ở đâu hết, thơ mang rất rõ dấu ấn của người làm ra nó. Dấu ấn đó có thể là do kinh nghiệm sống, do lối suy nghĩ… đưa lại. Đứng về mặt nghệ thuật mà nói, dấu ấn trong thơ có thể được tạo nên bởi lối diễn đạt, bởi mức độ vận dụng các truyền thống nghệ thuật của thơ ca.

  • Linda Lê, nhà văn nữ, mẹ Pháp cha Việt, sinh năm 1963 tại Đà Lạt, hiện đang sống tại Paris, viết văn, viết báo bằng tiếng Pháp. Một số tác phẩm của nhà văn đã được dịch sang tiếng Việt và xuất bản tại Việt Nam như là: Vu khống (Calomnies), Lại chơi với lửa (Autres jeux avec le feu). Chị đã có buổi nói chuyện tại Trung tâm Văn hóa Pháp tại Huế vào ngày 15.10.2010 vừa rồi. Sau khi trao đổi về bản dịch, chị đã đồng ý cho phép đăng nguyên văn bài nói chuyện này ở Tạp chí Sông Hương theo như gợi ý của dịch giả Lê Đức Quang.

  • LÊ TIẾN DŨNGKhi nói đến thơ một vùng đất, thường người ta vẫn chú ý nhiều đến những vấn đề như tác phẩm, thể loại, đội ngũ… nghĩa là tất cả những gì tạo nên phong trào thơ của một vùng.

  • LẠI NGUYÊN ÂN(Trích đăng một phần tiểu luận)

  • KHẾ IÊMGửi các nhà thơ Đỗ Quyên, Inrasara và Lê Vũ

  • TRẦN HUYỀN SÂMTrong một nghiệp bút, hình như có tính quyết định bởi những cú sốc. Hoặc là cú sốc ái tình, hoặc là cú sốc chính trị, hoặc là sự thăng hoa của một miền ký ức nào đó ở tuổi hoa niên. Tiểu thuyết gia, chính trị gia Peru: Mario Vargas Llosa - người vừa được vinh danh giải Nobel văn học, dường như đã “chịu” cả ba cú sốc nói trên.

  • LTS: Thơ Haiku Nhật Bản thế kỷ XVII không dùng lối nói bóng gió, không tìm kiếm những nét tương đồng giữa “thế giới bên trong” của con người và hiện thực “bên ngoài” để tạo ra cầu nối giữa con người với thế giới, con người với con người. Haiku dùng những biểu tượng hàm súc ứ đầy thông tin và cảm giác để khắc họa con người trong nhất thể với thế giới. Đường thi cũng rất ít xuất hiện trường hợp dùng lối nói ẩn dụ, mà bộc lộ trực tiếp ý tưởng và ưa thích liên tưởng mà không cần viện tới cái tương đồng.

  • LGT: 1. Dịch giả, nhà phê bình Trần Thiện Đạo( sinh 1933) định cư ở Pháp từ thập niên 50. Sống hơn nửa thế kỷ ở Paris, Trần Thiện Đạo đã thâm ngấm sâu sắc ngôn ngữ và văn minh Pháp. Tuy nhiên, cảm thức cội nguồn vẫn luôn tiềm tàng trong tâm thức của một người trí thức sống lưu vong. Miệt mài, đam mê đến khổ hạnh, ông đã tạo lập một vị trí đặc biệt trong dòng đối lưu văn chương Pháp -Việt.

  • NGUYỄN THANH TÂM1. Thơ vốn dĩ là sản phẩm của đời sống tinh thần, là sự biểu hiện một cách tinh tế những diễn biến nội tâm của chủ thể sáng tạo. Ngôn từ vẫn luôn là chất liệu với nội lực biểu hiện vô song của nó. Các nhà thơ dù ở thời đại nào, trong môi trường văn hóa, lãnh thổ nào cũng không thể thoát ra khỏi sự ràng buộc tự nhiên của cái biểu đạt ấy để hướng tới cái được biểu đạt ẩn sâu sau những “lựa chọn” và “kết hợp” có giá trị mĩ học.

  • MAI VĂN HOANKỷ niệm 70 năm ngày mất Hàn Mặc Tử (11/11/1940 - 11/11/2010)Hàn Mặc Tử tên thật Nguyễn Trọng Trí, sinh năm 1912, mất năm 1940. Quê Lệ Mỹ, Đồng Hới, Quảng Bình. Tổ tiên họ Phạm, ông cố Phạm Nhương, ông nội Phạm Bồi, vì liên can quốc sự trốn vào Thừa Thiên đổi ra họ Nguyễn. Cha là Nguyễn Văn Toản, mẹ là Nguyễn Thị Duy.

  • PHONG LÊHôm nay theo tôi quan niệm là một thời gian khá dài, nếu tính từ khởi động của công cuộc Đổi mới với Đại hội Đảng lần thứ VI - 1986.

  • THÁI DOÃN HIỂUVì sao Nguyễn Du viết Truyện Kiều? Mục đích viết Kiều để làm gì?... là những câu hỏi bức bối trong suốt thời gian tôi còn làm ông giáo đứng trên bục giảng. Tôi đã viết một chuyên luận dài 200 trang để trả lời câu tự vấn trên. Dưới đây là bản tóm tắt ghi bằng thơ để bạn đọc dễ tiếp thu và ghi nhớ.

  • L.T.S: Tối 27-3-1984, tại Huế, giáo sư Xi-đô-rốp, ủy viên Ban chấp hành Hội Nhà văn Liên Xô, hiệu phó học viện Gooc-ki và là nhà lý luận Văn học nổi tiếng của Liên Xô, đã đến tham dự cuộc tọa đàm về các vấn đề văn học với các hội viên Hội Nhà văn Việt Nam ở Bình Trị Thiên. Sau đây là những ý kiến của giáo sư về các vấn đề đặt ra trong cuộc tọa đàm, qua lời phiên dịch của nhà thơ Bằng Việt, do Hoàng Phủ Ngọc Tường ghi lại.

  • MAI VĂN HOANTheo thần thoại Hy Lạp, vị thần đầu tiên xuất hiện trên thế gian là thần Ái tình. Thần Ái tình là một đứa bé có cánh với cây cung bên người, ngọn đuốc cầm tay mang tình yêu đến với những trái tim. Tình yêu - nguồn đề tài không bao giờ cạn của văn học nói chung và thơ ca nói riêng.

  • LƯƠNG ANNhớ có một bài thơ “nói láo” nào đó, khi kết thúc đã nói đến một điều không thể được là làm cho “mấy nàng công chúa phải say mê”. Bài thơ nói đúng với những chàng trai bất tài. Còn trường hợp có tài thì sự việc sẽ khác. Một câu chuyện tình trong đời của nhà thơ Nguyễn Hàm Ninh đã chứng minh điều đó.

  • TRẦN ĐÌNH SỬ1. Văn học - hiện thực là một trong bốn quan hệ cơ bản của văn học nghệ thuật

  • PHAN TUẤN ANH “Trên thực tế, mỗi người chỉ viết một cuốn sách. Chỗ khó là làm sao biết được cuốn sách nào đang được một người viết ra. Trong trường hợp của tôi, điều người ta nhắc đến thường xuyên nhiều hơn cả là cuốn sách về làng Macondo…” (G.G.Marquez).

  • NGUYỄN ĐỨC TÙNGNếu chiều mưa một cây đàn ghi-ta có ai cầm lên, ngân vài nốt nhạc, thời gian sẽ chậm lại, mọi người ngồi gần vào nhau, im lặng chờ nghe.

  • VÕ XUÂN TRANGỞ Bình Trị Thiên có hai câu hò cả nước đều biết, nhưng lâu nay được ghi theo nhiều cách khác nhau.