Tình hình giới văn nghệ sĩ cũng như tình hình cả xã hội ta hiện nay có thể tóm gọn trong một từ: nhốn nháo. Nhưng, theo cách diễn đạt của một tác giả Việt đương đại, đây là một sự nhốn nháo vĩ đại (1). Vì sao lại nhốn nháo? Trước Đổi mới, trong thời kỳ Chủ nghĩa xã hội “cũ”, những sự o ép và gò bó khá phổ biến đã tạo ra trong tâm lý người dân, đặc biệt trong giới nhân viên công chức một tâm quán xấu: sự phục tùng tự nguyện (và mù quáng). Với phong trào Đổi mới, tâm quán này bị phá vỡ và thế là nhốn nháo, những công chức vốn ngoan ngoãn nay không thể không tự hỏi: Cớ sao lại phải phục tùng một cách mù quáng và vô lý như vậy? Cùng với Đổi mới, kinh tế thị trường thâm nhập, tư hữu được khẳng định, những giá trị của cá nhân được đề cao, thế là có một sự đảo lộn về kỷ cương, về những giá trị và thứ bực, chỉ những sự đảo lộn này cũng đủ để tạo ra sự nhốn nháo. Vì sao lại nhốn nháo vĩ đại? Công cuộc Đổi mới đã thức tỉnh ở người dân ba bản năng vĩ đại của loài người: bản năng sống, bản năng tự do, bản năng mưu cầu hạnh phúc. Chủ nghĩa xã hội cũ đã dồn nén chúng nhưng chúng không bị cạn kiệt. Đuổi chúng ra khỏi cửa chính thì chúng chui vào cửa sổ. Không như ở Nga sau Cải tổ, ở Việt đến thời Đổi mới thì chúng còn đủ sức để bật lên mạnh mẽ, tạo ra sự nhốn nháo vĩ đại. Trong bản Tuyên ngôn độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh thì ba bản năng này được nâng lên thành quyền: quyền sống, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc…, những quyền này đã từng được khẳng định trong Tuyên ngôn độc lập Hoa Kỳ 1776. Nếu như mọi đường lối, chính sách biết nương theo ba bản năng này và nhân dân kiên quyết bảo vệ những quyền đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh trịnh trọng nêu lên trong Tuyên ngôn, chắc chắn sự nghiệp Đổi mới sẽ thành công rực rỡ. Trước bản Tuyên ngôn độc lập của Hồ Chí Minh đã có bài thơ “Nam quốc Sơn hà…” của Lý Thường Kiệt, bài Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi là những áng văn thực sự có ý nghĩa Tuyên ngôn độc lập. Vì sao trong bản Tuyên ngôn độc lập của Hồ Chí Minh tác giả không trích dẫn hai bản kia mà chỉ trích dẫn từ bản Tuyên ngôn Độc lập 1776 của Hoa Kỳ và bản Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền 1791 của Pháp. Chúng ta cần suy nghĩ về vấn đề này. Theo giả thuyết của tôi, Hồ Chí Minh không chỉ là một người yêu nước, thương dân, nếu chỉ có vậy, ông có thể bằng lòng với tư tưởng “ái quốc ưu dân” trong hai áng văn của Lý Thường Kiệt và Nguyễn Trãi. Hồ Chí Minh còn là một chiến sĩ đấu tranh cho tự do, dân chủ, ông tha thiết với quyền sống, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc của con người, đây là những tư tưởng có ý nghĩa phổ quát nhân loại, tư tưởng Hồ Chí Minh có tầm phổ quát nhân loại. Tôi mong muốn các nhà văn, các nghệ sĩ Việt đặc biệt quan tâm đến vấn đề này. Chúng ta chưa có được những tác phẩm lớn như chúng ta mong muốn, phải chăng vì chúng ta bị cuốn hút vào những mô típ có tính chất thời sự, những chủ đề “bức xúc” của giai đoạn, quên đi mất cái tầm phổ quát nhân loại bao giờ cũng vẫy gọi những tâm hồn thực sự nghệ sĩ, không kể là trước đây sống ở Hà Nội hay Sài Gòn và hiện nay sống ở trong nước hay ngoài nước. |
PHAN NGỌC
Trong quyển "Tìm hiểu phong cách Nguyễn Du trong truyện Kiều", tôi có dùng một số thuật ngữ chuyên môn. Trong phạm vi quyển sách tôi không thể trình bày kỹ cách hiểu của mình, cho nên có sự hiểu lầm. Giờ tôi xin trình bày kỹ hơn khái niệm "thức nhận", cơ sở của tác phẩm, để bạn đọc dễ đánh giá hơn.
YẾN THANH
Trong bài viết này, chúng tôi muốn nhìn nhận những cống hiến của GS.TS Lê Huy Bắc trên lĩnh vực khoa học, đây là những thành tựu mà theo chúng tôi, vừa có tính lan tỏa, lại vừa có tính bền vững. Bởi vì, có thể nhiều học viên, nhà nghiên cứu dù không trực tiếp được nhà khoa học giảng dạy, hướng dẫn, nhưng từ những công trình, bài báo khoa học, vẫn được kế thừa và chịu sự tác động từ người thầy đó.
TRIỆU SƠN
Bài này nhằm trao đổi với tác giả Nguyễn Thị Tịnh Thy về những bất cập của nghiên cứu, phê bình văn học hiện nay nhân đọc bài “Những bất cập và thái quá trong nghiên cứu văn học hiện nay” của tác giả trên Sông Hương, 294/08-13.
PHAN TRỌNG HOÀNG LINH
Được Bakhtin đề xuất trong công trình nghiên cứu về sáng tác của Frăngxoa Rabơle, thuật ngữ chủ nghĩa hiện thực nghịch dị (grotesque realism) là sự định danh ước lệ cho một kiểu hình tượng đặc thù (hay phương pháp xây dựng hình tượng đặc thù) của nền văn hóa trào tiếu dân gian, kiểu hình tượng nghịch dị.
LTS: Phạm Phú Uyên Châu, bút danh Meggie Phạm, sinh năm 1991, hội viên trẻ nhất của Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế, tác giả của bộ truyện dài liên hoàn do Nxb. Trẻ ấn hành: Hoàng tử và em (2011, tái bản 2011), Giám đốc và em (2011, tái bản 2012), Chàng và em (2012, tái bản 2012), Người xa lạ và em (2012) và Tôi và em (đang in).
ĐOÀN ÁNH DƯƠNG
Trong Điều kiện hậu hiện đại, Jean-Francois Lyotard cho rằng: “Bởi vì người ta không thể biết điều gì xảy ra cho tri thức, tức là sự phát triển và truyền bá nó hiện nay đang gặp phải những vấn đề gì, nếu không biết gì về xã hội trong đó nó diễn ra.
ĐANIEN GRANIN
Năm ngoái, một tai họa xảy ra với tôi. Tôi đi trên đường phố, bị trượt chân và ngã xuống... Ngã thật thảm hại: mặt áp xuống, mũi toạc ra, tay bị tréo lên vai. Lúc đó khoảng bảy giờ chiều, ở trung tâm thành phố, trên đại lộ Kirov, cách ngôi nhà ở không xa.
PHẠM QUANG TRUNG
Bàn về hiệu quả của lý luận trong quan hệ với sáng tác, cần phân tách xu hướng lý luận dành cho tìm hiểu sáng tác của nhà văn (hướng nhiều hơn tới người nghiên cứu) với xu hướng lý luận dành cho sáng tác của nhà văn (hướng nhiều hơn tới người sáng tạo).
HÀ VĂN LƯỠNG
Trong thể loại tự sự, người trần thuật giữ một vai trò quan trọng, góp phần làm nên giá trị nghệ thuật tự sự của tác phẩm văn học.
NGUYỄN THỊ TỊNH THY
Đời sống văn học không thể thiếu phê bình, nghiên cứu. Nếu xem “tác phẩm văn học như là quá trình”(1) thì phê bình và nghiên cứu là một khâu quan trọng trong chuỗi quá trình đó.
PHAN TUẤN ANH
1. Nguyên tắc thẩm mỹ facebook và lối đọc status - entry
Những tác phẩm của Đặng Thân như Ma net mà đặc biệt là 3339 [những mảnh hồn trần] từ khi ra đời đến nay đã trở thành những “cú sốc văn hóa” mini trong đời sống văn học Việt Nam.
BÙI BÍCH HẠNH
Cất tiếng như một định mệnh của quyền năng nghệ thuật giữa phố thị thơ miền Nam những năm 50 - 60 thế kỉ XX, người thơ Thanh Tâm Tuyền, bằng tuyên ngôn nghệ thuật khởi từ ca dao sang tự do, đã tham dự vào thi đàn vốn nhiều biến động với tư cách một hữu thể mưu cầu phục sinh.
NGUYỄN QUANG HUY
Phạm Thái (1777 - 1813) là một khuôn mặt khá đặc biệt trong thơ văn Việt Nam giai đoạn cuối thế kỉ XVIII, đầu thế kỉ XIX. Đặc biệt trong thời đại ông sinh ra và ứng xử với nó; đặc biệt trong cách thể hiện thế giới nghệ thuật nhiều cá tính, nhiều gương mặt; đặc biệt trong vũ trụ mộng trước cuộc đời; đặc biệt trong cách thế tồn tại tài hoa mệnh bạc của ông; đặc biệt hơn là thơ văn của ông chưa được lưu ý phân tích ở chiều sâu tâm lí, chiều sâu thẩm mĩ.
THÁI DOÃN HIỂU
Thời kỳ còn sống lang thang Kazan, nhà văn trẻ tài năng M. Gorky luôn làm phiền cho trật tự của chính quyền, cảnh sát Nga Hoàng tống lao ông. Trong tù, ông vẫn viết truyện, tuồn ra ngoài in đều đều trên các mặt báo.
INRASARA
1.
Ch. Fredriksson trả lời cuộc phỏng vấn, cho rằng: “Ý tưởng dường như có tính tiên quyết, xem người nghệ sĩ làm gì và làm như thế nào với tác phẩm của mình, để làm sao cho tác phẩm ấy có hiệu quả nhất khi đến với công chúng.
NGUYỄN BÀN
Hồi còn học trung học, khi đọc Truyện Kiều, chúng tôi đinh ninh rằng Thúy Kiều gặp Kim Trọng lúc tuổi “xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê”, nghĩa là khoảng 15, 16 tuổi. Nay đọc cuốn Tìm hiểu Truyện Kiều của tác giả Lê Quế (Nxb. Nghệ An, 2004) thì thấy Thúy Kiều gặp Kim Trọng lúc 22 tuổi.
PHẠM PHÚ PHONG
Nguyễn Hữu Sơn là nhà nghiên cứu văn học trung đại Việt Nam, là phó giáo sư, Tiến sĩ, Phó Viện trưởng Viện Văn học và Phó Tổng Biên tập Tạp chí Nghiên cứu Văn học.
LUÂN NGUYỄN
Trần Đức Thảo, với người Việt, hiển nhiên là một trí tuệ hiếm có. Trong tín niệm của tôi, ông còn là một trí thức chân chính. Một trí thức dân tộc.
MAI VĂN HOAN
Trong những tháng ngày ở Châu Thai chờ đợi Từ Hải, sau khi diễn tả nỗi nhớ của Kiều đối với quê nhà, cha mẹ, Nguyễn Du viết: Tiếc thay chút nghĩa cũ càng/ Dẫu lìa ngó ý còn vương tơ lòng.
NGUYỄN HỒNG TRÂN
Vua Minh Mạng (tên hoàng tử là Nguyễn Phúc Đảm) lên làm vua năm Canh Thìn (1820). Ông là một vị vua có tri thức uyên thâm, biết nhìn xa thấy rộng.