NGUYỄN ĐĂNG MẠNH
Chúng ta đã viết nhiều, nói nhiều, giảng nhiều về văn thơ Bác. Trong nhà trường, chương trình văn từ các cấp phổ thông đến đại học đều dành vị trí quan trọng cho những tác phẩm của Người.
Và để phục vụ cho việc thực hiện chương trình ấy, hàng loạt sách chuyên luận, sách giảng văn, sách luyện thi đã ra đời. Đấy là chưa kể biết bao cuộc hội thảo lớn nhỏ từ trung ương đến các địa phương đã được tổ chức để bàn bạc về những bài văn, bài thơ của Bác. Nhờ thế chúng ta đã khắc phục được rất nhiều về nhận thức ấu trĩ, những cách nghĩ ngợi vô căn cứ, khuynh hướng suy diễn bừa bãi về dụng ý chính trị không hề có ở nhiều vần thơ rất đỗi hồn nhiên tự nhiên của Người. Có một điều rất lạ là, mắc phải những nhược điểm ấu trĩ nói trên có cả những người có học vấn cao, thậm chí cả những giáo sư rất uyên bác và nổi tiếng. Thành ra những sách vở, những bài viết của họ dù thế nào cũng không khỏi tiếp tục ảnh hưởng tới nhận thức của nhiều người.
Vì thế tôi cho rằng, chung quanh việc nghiên cứu, giảng dạy văn thơ của Bác, có những điều tuy không phải chưa có ai đề cập đến, nhưng vẫn phải nhắc lại, đúng hơn, phải bàn bạc thêm.
Trong số những vấn đề ấy việc tìm hiểu quan điểm sáng tác văn thơ của Bác có ý nghĩa quan trọng trước hết. Chính Bác đã nói rất rõ nhân trò chuyện với các nhà báo về Cách viết. Đối với mỗi bài viết, Người xác định rõ ràng: Viết để làm gì (mục đích), viết cho ai (đối tượng tiếp nhận)! Từ đó, quyết định viết cái gì (nội dung), và viết thế nào (hình thức).
Cần nhớ mục đích ở đây là mục đích chính trị, đối tượng ở đây là đối tượng vận động chính trị. Bởi vì Bác, trước sau, không bao giờ xem mình là nhà văn nhà thơ, và tuyệt nhiên không có ý định để lại một sự nghiệp văn thơ cho đời.
Quan điểm sáng tác này là của riêng Bác, của riêng Hồ Chí Minh. Nó chi phối chặt chẽ và nhất quán toàn bộ hoạt động văn học của Người. Đây là một nhà chính trị luôn nhớ mình là một nhà chính trị, dứt khoát chỉ dùng văn thơ như một thứ vũ khí đấu tranh chính trị (cùng với nhiều thứ vũ khí khác).
Không căn cứ vào quan điểm sáng tác này của Bác sẽ không giải thích được vì sao khối lượng những trang viết của Người lại dành phần lớn cho thể văn chính luận, tiểu phẩm báo chí, lời kêu gọi, thư từ gửi các ngành các giới và những bài thơ tuyên truyền cổ động dưới hình thức những bài ca, bài vè (Ca dân cày, Ca công nhân, Ca binh lính, Ca sợi chỉ...) hay thơ chúc Tết mừng xuân v.v... Trong khối lượng bài viết ấy những tác phẩm văn thơ được sáng tạo bằng tư duy nghệ thuật đích thực chỉ chiếm một phần nhỏ, tuy rằng người viết có đủ năng khiếu và tài ba để có thể sáng tạo một cách dồi dào phong phú không kém bất cứ một nhà văn, nhà thơ chuyên nghiệp nào. Nói riêng về thơ nghệ thuật, quan điểm sáng tác nói trên của Bác sẽ giải thích vì sao phải đợi đến ngoài 50 tuổi Người mới viết tập thơ đầu, mà lại viết trong một trường hợp vạn bất đắc dĩ (Nhật ký trong tù). Con người ta có yêu thích cái gì mới có thể giải trí bằng cái đó được. Trong nhà tù của chính quyền Tưởng Giới Thạch ở Quảng Tây (Trung Quốc) hồi 1942 - 1943, buồn bực vì bị mất tự do, Người đã giải trí bằng sáng tác thơ. Vậy là người rất yêu thơ và thích làm thơ. Nhưng niềm yêu thích rất đẹp và rất chính đáng ấy, Người đành xếp lại, đành hy sinh đi để dồn tất cả tâm lực cho một hoạt động khác cấp bách hơn: giành độc lập tự do cho dân cho nước.
Nhận thức trên đây về quan điểm sáng tác của Bác Hồ giúp ta xác định nguyên tắc này khi tìm hiểu và đánh giá mỗi tác phẩm của Người từ nội dung đến hình thức: cần xem mỗi tác phẩm ấy trước hết không phải là một hành vi văn chương mà là một hành vi chính trị, hiểu theo nghĩa chặt chẽ của từ này. Chính trị tất nhiên bao giờ cũng có mục đích cụ thể thiết thực và đối tượng vận động thuyết phục cụ thể thiết thực. Không nắm được mục đích ấy, đối tượng ấy sẽ lúng túng không hiểu được nội dung và hình thức của một bài văn kia, một bài thơ nọ của Người vì sao lại được viết như vậy, đồng thời cũng không xác lập được tiêu chuẩn đánh giá tác phẩm cho đúng đắn, và như thế, nhất định sẽ sinh ra đủ thứ suy diễn tùy tiện.
Chúng ta biết có những nhà nghiên cứu, phê bình và giáo viên văn học, đứng trước những bài Ca dân cày, Ca công nhân, Hòn đá, Nhóm lửa... hay một số bài thơ chúc tết của Bác Hồ, đã không biết làm cách nào để bình giảng cho xứng đáng với tầm cỡ vĩ đại của tác giả. Đã coi đấy là hành vi văn chương, tất phải đưa ra đủ thứ tiêu chí của văn chương để phân tích, đánh giá: nào là hình tượng, nhịp điệu độc đáo, nào là các phép so sánh, ẩn dụ, nhân hóa... tài tình, nào là phương pháp hiện thực xã hội chủ nghĩa được vận dụng đến trình độ mẫu mực vân vân và vân vân. Thành ra xuất phát từ lòng tôn kính chân thật, người ta đã phải nói khá nhiều điều không chân thật. Ngoài ra còn vì thế mà hạ thấp và làm nhiễu loạn các tiêu chuẩn giá trị văn chương, và một cách không tự giác, hạ thấp luôn cả phẩm chất nhà văn của Bác Hồ.
Thực ra viết những bài thơ ấy, Bác có định làm nghệ thuật đâu. Mục đích chỉ là phổ biến đường lối chính sách của Đảng cho đại chúng (trình độ văn hóa thấp, phần lớn mù chữ, đời sống khó khăn, vất vả không có thì giờ đâu để nghĩ ngợi nhiều về văn chương sao cho thật dễ hiểu và dễ nhớ. Nội dung vì thế phải thật đơn giản. Hình thức thì phải hết sức nôm na, chỉ cần có vần có vè đôi chút cho dễ nhớ, dễ thuộc, dễ truyền khẩu từ người này đến người khác... Tư tưởng sâu sắc ở đây, nghệ thuật cao siêu độc đáo ở đây để làm gì chứ?
Nhưng nói như thế không có nghĩa là Bác Hồ không có lúc nào làm nghệ thuật và thực sự tạo nên những giá trị văn chương.
Chúng ta dễ dàng nhất trí với nhau: những truyện ngắn của Nguyễn Ái Quốc viết ở Pháp vào những năm hai mươi của thế kỷ này như Vi hành, Varen và Phan Bội Chân, Lời than vãn của bà Trưng Trắc, Pari... đều là những tác phẩm xuất sắc.
Nhưng nói rằng những tác phẩm này được viết ra trước hết như những hành vi văn chương của nhà cách mạng thì cũng không phải. Bởi như thế sẽ không giải thích được vì sao Người lại viết bằng tiếng Pháp với phong cách Âu Châu hiện đại như thế, trong đó có nhiều thủ pháp nghệ thuật, nhiều trí thức đời sống và sách vở chỉ quen thuộc với người châu Âu, thậm chí với người Pari. Rút cục lại phải xem đây là những hành vi chính trị với mục tiêu thiết thực và đối tượng thuyết phục rất cụ thể của nó mới tìm được lời giải đáp thỏa đáng. Chẳng hạn như truyện Vi hành, tác giả muốn xé tan cái con bài Quốc vương An Nam Khải Định mà bọn thực dân đưa sang “thăm” nước Pháp và dự cuộc “Đấu xảo thuộc địa Mác-xây (1922) để hòng lừa bịp người dân chính quốc: kẻ đại diện cho dân tộc lớn nhất ở Đông Dương đã có mặt ở đây để tỏ thái độ "hoàn toàn thần phục và vô cùng biết ơn công lao khai hóa" của Đại Pháp... Âm mưu này hẳn có liên quan đến việc huy động vốn đầu tư của chính phủ Pháp và các nhà tư bản đối với cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai ở Đông dương được tiến hành với quy mô lớn từ sau đại chiến thế giới lần thứ nhất (1914 - 1918). Nguyễn Ái Quốc đã viết truyện ấy trước hết cho người Pháp đọc, tất phải sử dụng bút pháp của văn học phương Tây hiện đại. Đối với công chúng này, văn đả kích có sức thuyết phục cao thì không nên dùng lối thóa mạ trực tiếp. Có lẽ vì thế "tác giả đã tạo ra ở thiên truyện này một tình huống nhầm lẫn" rất độc đáo và rất vui để có thể dựng lên hình ảnh ông vua bù nhìn hết sức lố bịch, rất "hề" trong con mắt của chính người dân Pari đang háo hức những trò giải trí mới lạ.
Về thơ cũng thế. Tặng Bùi Công chẳng hạn, cũng là một bài hay. Một tác phẩm có vẻ đẹp thật là trang nhã một cách cổ điển:
Xem sách chim rừng vào cửa đậu
Phê văn hoa núi ghé nghiên soi
Tin vui thắng trận dồn chân ngựa
Nhớ cụ thơ xuân tặng một bài.
Cũng là động viên chính trị đấy thôi, nhưng nhằm vào một nhân sĩ trí thức thuộc thế hệ am hiểu cổ thi như thế thì nhất thiết phải có thơ hay, mà tốt nhất là thơ chữ Hán, và phải làm cho thật ra Đường ra Tống như thế mới có thể đưa được chính trị vào lòng người. Thử tưởng tượng mà xem, thơ tặng cụ Bùi mà lại viết theo lối Ca dân cày, Ca công nhân, hay Hòn đá… thì sự thể sẽ ra làm sao?
Từ những tác phẩm khác nhau như thế, có thể rút ra nhận xét này về qui luật viết văn, làm thơ của Bác Hồ: Vì những mục đích chính trị nhất định, vì những đối tượng vận động chính trị nhất định, có lúc Người không cho phép mình được làm nghệ thuật. Nhưng ngược lại, cũng vì những mục tiêu chính trị nhất định và những đối tượng vận động chính trị nhất định, có lúc Người đã buộc mình phải tạo nên những áng văn chương thật sự. Cố nhiên ở trường hợp thứ hai này ý chí tuy rất cần nhưng không hẳn có vai trò quyết định. Trong lĩnh vực văn chương nghệ thuật, tư tưởng cao, trí thức rộng, vốn sống nhiều là những điều kiện cực kỳ quan trọng. Nhưng nếu không có năng khiếu nghệ thuật không có tài thì đến như Lênin cũng không thể làm nổi hai câu thơ(1). Về phương diện này Bác Hồ là người hết sức khiêm tốn. Tôi cứ nghĩ mãi về thái độ kiên quyết của Người, dứt khoát từ chối khi người ta gọi mình là nhà văn nhà thơ(2).
Có thể hiểu như thế này chăng: Chính vì Người hiểu hơn ai hết cái kỳ diệu thiêng liêng và cái khó khăn rất lớn của sáng tạo văn chương. Đây là một quan niệm không dễ có ở những người thiếu hiểu biết và không từng được sống trong môi trường văn hóa hiện đại. Thời trung cổ, bọn vua chúa coi nghệ sĩ không hơn gì thằng hề con hát. Sau này, những ông vua văn minh hơn, có văn hóa hơn thì cũng chỉ xem họ như những vật trang sức sang trọng nơi cung đình mà thôi (và tưởng thế là đã biết coi trọng văn nghệ sĩ).
Nhưng Bác Hồ từng sống tuổi thanh niên ở một trung tâm văn hóa của thế giới, lại làm bạn với những nghệ sĩ bậc thầy của nhân loại như Rômanh Rôlăng, Picátxô... chắc Người biết thế nào là cái giá của một tài năng nghệ thuật.
Vì thế Người từ chối không nhận mình là một nghệ sĩ. Nhưng người đọc trong nước và ngoài nước lại thấy Bác rất xứng đáng với danh hiệu ấy. Vì những truyện ký Người viết những năm hai mươi, tập thơ Nhật ký trong tù, những bài thơ tứ tuyệt làm ở Pắcbó trước Cách mạng tháng tám và trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, không phải tất cả đều hay nhưng những bài có giá trị nghệ thuật cao không ít. Trong số những bài thơ hay nhất của Người, tôi cho rằng bài Cảnh chiều hôm (Vãn cảnh) là bằng chứng thật độc đáo của chất nghệ sĩ Hồ Chí Minh:
Hoa hồng nở, hoa hồng lại rụng
Hoa tàn, hoa nở cũng vô tình
Hương hoa bay thấu vào trong ngục
Kể với tù nhân nỗi bất bình.
Nhiều nhà nghiên cứu phê bình, nhiều nhà thơ đã bình bài thơ này. Nhưng tôi cảm thấy chưa có ai bình thật trúng. Nhà thơ Xuân Diệu cũng trăn trở rất nhiều về bài tứ tuyệt này. Nhưng mãi cho đến khi viết bài Đọc lại thơ Nhật ký trong tù (Văn nghệ số 21 ngày 12-5-1984) hình như ông mới chạm tới được cái ý nghĩa thực của bài "Hoa tàn hoa nở" độc đáo này của Bác: "Theo cháu nghĩ, đâu có phải chỉ là thiên hạ vô tình, mà hơn nữa kia, tạo hóa vô tình (...) Các lớp hoa hồng nở rụng, rụng nở tạo hóa vẫn cứ vô tình, chỉ có tạo hóa vô tình...".
Tôi muốn nối thêm vào lời bình của Xuân Diệu ý nghĩ nhỏ này: nhà thơ tuy không nói đến chữ nghĩa của Bác nhưng đã hiểu đúng chữ nghĩa của Người:
Mai khôi hoa khai, hoa hựu tạ
Hoa khai hoa tạ lưỡng vô tình.
Chỉ có hiểu là: "Hoa hồng nở hoa hồng lại rụng. Hoa nở hoa rụng, hai cái “sự’’ đó đều vô tình". Vậy là tạo hóa vô tình, trời đất vô tình, đúng là như thế. Nhưng điều này nếu không phải là thi sĩ thì làm sao quan niệm được. Không phải là thi sĩ thì nỗi "bất bình" của hương hoa và cũng là của tác giả ở đây thật là "vớ vẩn" thật là "lẩm cẩm". Ôi, chỉ có nghệ sĩ một trăm phần trăm mới quí cái đẹp đến thế, mới biết tiếc cái đẹp đến thế, và mới cảm thấy bất bình cả với quy luật của thiên nhiên.
Hương hoa bay thấu vào trong ngục
Kể với tù nhân nỗi bất bình.
Phải rồi, nỗi bất bình này hương hoa chỉ có thể tìm được tri âm tri kỷ ở người tù - thi sĩ Hồ Chí Minh mà thôi. Một tứ thơ thật là thi sĩ, thật là nghệ sĩ. Mà hãy nghĩ kỹ mà xem, nỗi bất bình này ở người sáng tạo nghệ thuật đâu có phải là vu vơ, lẩm cẩm: Bởi vì cái quy luật sắt đá kia của tạo vật không phải không thể khắc phục được: nhà nghệ sĩ sinh ra chẳng phải là để vĩnh cửu hóa, bất tử hóa cái đẹp ở cõi đời này đó sao?
Nhưng hãy trở lại vấn đề quan điểm sáng tác của Bác Hồ. Một câu hỏi đặt ra: Vì sao nhiều bài thơ nghệ thuật của Bác lại khó hiểu như vậy? Quả thật có một số bài trong Nhật ký trong tù và trong những chùm thơ Bác làm ở Việt Bắc từ 1941 đến 1950 đã khiến cho nhiều nhà bình thơ sành sỏi như Đặng Thai Mai, Hoài Thanh, Xuân Diệu, Chế Lan Viên... cũng cảm thấy bất lực. Không ít ý kiến đối chọi nhau, bác bỏ nhau chung quanh một bài: Giải đi sớm, Vào nhà lao huyện Tĩnh Tây, Cảnh chiều tối... (Nhật ký trong tù), hay Lên núi, Tức cảnh Pắcbó... (Thơ). Thực ra hiểu văn chương nghệ thuật cho thấu đáo có bao giờ là dễ. Đây là lĩnh vực của tìm tòi mới mẻ, của sáng tạo độc đáo, với những hình tượng đa diện, ngôn từ đa nghĩa. Đây đâu phải thứ thơ tuyên truyền chính trị, minh họa đường lối hay chính luận có vần, thường chỉ có một bình diện nghĩa và được diễn đạt rành mạch như hai với hai là bốn.
Nhưng viết văn đối với Bác trước hết là hành vi chính trị thì sao Người lại làm thơ "khó" như thế? Nhà cách mạng muốn vận động thuyết phục ai mà đến nỗi cả đến chuyên gia văn học cũng phải lúng túng? Lời giải đáp trước sau vẫn là một: Hãy xem Bác viết cho ai và viết để làm gì?
Thì đây Bác đã nói rõ trong bài mở đầu tập Nhật ký trong tù:
Ngâm thơ ta vốn không ham
Nhưng vì trong ngục biết làm chi đây
Ngày dài thêm ngợi cho khuây
Vừa ngâm vừa đợi đến ngày tự do.
Vậy là Hồ Chí Minh lại viết cho Hồ Chí Minh để khuây khỏa trong những ngày tháng bị cùm trói trong tù. Cũng là một hình thức động viên chính trị hiểu theo nghĩa rộng chứ sao? Có điều đối tượng để động viên ở đây lại chính là người làm thơ. Vậy thì thơ viết "khó" cũng chẳng có can hệ gì đến ai. Mà "khó" như thế cũng là phải, vì độc giả là Hồ Chí Minh kia mà! Những bài thơ "khó" khác ngoài Nhật ký trong tù cũng đều có thể giải thích như vậy.
Nhìn một cách bao quát toàn bộ sự nghiệp văn học của Bác Hồ, thấy thật là phong phú đa dạng từ nội dung đến hình thức. Có thể tìm thấy ở đây đủ thứ thể bài, dù loại bút pháp, phong cách, cả đến ngôn ngữ văn tự cũng vậy: khi dùng tiếng Việt, khi dùng chữ Hán, khi viết tiếng Pháp. Nhưng phong phú đa dạng lại bắt nguồn từ một cái gốc thống nhất; tất cả là vũ khí đấu tranh, là hành vi chính trị:
Nay ở trong thơ nên có thép
Nhà thơ cũng phải biết xung phong.
Tuy nhiên cần nhắc lại điều này: văn thơ của Bác không phải bao giờ cũng là văn thơ nghệ thuật. Nhà nghiên cứu, phê bình, giảng dạy văn thơ Bác cần phải phân biệt điều đó. Trong thực tế người ta đã lẫn lộn trong nhiều trường hợp. Mà không hiểu sao một số người cứ làm chuyện ngược đời, nhất là bình giảng thơ của Người: khi phân tích thơ tuyên truyền của Người hiểu theo nghĩa lối thơ minh họa chính trị, người ta lại cứ gò cho nó thành thơ nghệ thuật để "phát hiện" những sáng tạo văn chương không có trong văn bản. Ngược lại, khi phân tích những bài thơ nghệ thuật lại cứ muốn biến nó thành lối tuyên truyền chính trị trực tiếp và đơn giản để không chịu khai thác giá trị thẩm mỹ và ý nghĩa nhân bản phong phú sâu sắc trong đó. Hình như có một quan niệm này cứ ám ảnh người bình thơ: ý nghĩa chính trị là nội dung cao nhất, sâu sắc nhất và duy nhất của thơ cách mạng. Cho nên "Mây mưa mây tạnh bay đi hết" trong bài Vào nhà lao huyện Tĩnh Tây phải là đế quốc, phong kiến sẽ bị tiêu diệt hết, và "gà gáy một lần đêm chửa tan" trong bài Giải đi sớm phải là cách mạng xã hội chủ nghĩa mới thành công ở một nước, cũng như "Bàn đá chông chênh" trong bài Tức cảnh Pắcbó nhất định phải là cơ sở cách mạng chưa được vững vàng, và "Núi ấp ôm mây, mây ấp núi" trong bài Mới ra tù, tập leo núi phải là tình hình chính trị ở Trung Quốc đang mờ ám rối ren v.v... Phân tích như thế thì còn đâu là nghệ thuật còn đâu là cái đẹp, còn đâu là hồn thơ!.
Người bình thơ, giảng thơ như thế tưởng là sâu sắc, hóa ra là hời hợt nông cạn, tưởng đề cao Bác Hồ té ra là hạ thấp Bác ở cả hai phương diện nhà chính trị và nhà thơ.
N.Đ.M.
(TCSH42/04&05-1990)
-------------------
(1) Lênin nói: “Cứ lột da tôi, tôi cũng chịu, đến hai câu thơ cũng không làm nổi” - Theo hồi ký của M.Gorki. Lênin bàn về văn hóa văn học. Sự thật MN 1977, trang 459.
(2) Tôi trình bày với Bác Hồ ý kiến của tôi về thơ người, trong đó tôi vừa khám phá ra nhiều tinh hoa của nó. Hầu như Người từ chối. Người nói rằng, khi ở miền Nam Trung Quốc, Người đã làm những bài thơ ấy cho qua thì giờ, rằng Người thật ra không phải là một nhà thơ"(Rơnê Đơpêtrơ nhà báo Ha-i-ti, Tác phẩm mới, tháng 5,6-1970). "Qua nụ cười dí dỏm, Người nói rằng Người không phải là nhà thơ. Trong nhà tù không có việc gì làm nên Người cũng “tập ghép vần thêm" (Blaga Đimitréva - nhà thơ Bungari - Hà Nội mới 20-5-1970)...v.v…
AN KHÁNHHai mươi tám năm kể từ ngày chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam, đủ để một thế hệ trưởng thành, một dòng thơ định vị. Tháng 3 vừa qua, Hội Văn nghệ Hà Nội và nhóm nhà thơ - nhà văn - cựu binh Mỹ có cuộc giao lưu thú vị, nhằm tìm ra tiếng nói "tương đồng", sự thân ái giữa các thế hệ Mỹ - Việt thông qua những thông điệp của văn chương.
TRẦN ĐÌNH SỬ Bạn đọc Việt Nam vốn không xa lạ với phê bình phân tâm học hơn nửa thế kỷ nay, bởi nó đã bắt đầu được giới thiệu vào nước ta từ những năm ba mươi, bốn mươi thế kỷ trước. Nhưng đáng tiếc nó đã bị kỳ thị rất nặng nề từ nhiều phía. Giống như nhân loại có thời phản ứng với Darwin vì không chấp nhận lý thuyết xem con người là một loài cao quý lại có thể tiến hóa từ một loài tầm thường như loài khỉ, người ta cũng không thể chấp nhận lý thuyết phân tâm học xem con người - một sinh vật có lý trí cao quý lại có thể bị sai khiến bởi bản năng tầm thường như các loài vật hạ đẳng!
PHẠM ĐÌNH ÂN(Nhân kỷ niệm lần thứ 20 ngày mất của Thế Lữ 3-6-1989 – 3-6-2009)Nói đến Thế Lữ, trước tiên là nói đến một nhà thơ tài danh, người góp phần lớn mở đầu phong trào Thơ Mới (1932-1945), cũng là nhà thơ tiêu biểu nhất của Thơ Mới buổi đầu. Ông còn là cây bút văn xuôi nghệ thuật tài hoa, là nhà báo, dịch giả và nổi bật là nhà hoạt động sân khấu xuất sắc, cụ thể là đưa nghệ thuật biểu diễn kịch nói nước nhà trở thành chuyên nghiệp theo hướng hiện đại hóa.
THÁI DOÃN HIỂUPhàm trần chưa rõ vàng thauChân tâm chẳng biết ở đâu mà tìm. VẠN HẠNH Thiền sư
HỒ THẾ HÀ Thi ca là một loại hình nghệ thuật ngôn từ đặc biệt. Nó là điển hình của cảm xúc và tâm trạng được chứa đựng bởi một hình thức - “hình thức mang tính quan niệm” cũng rất đặc biệt. Sự “quái đản” trong sử dụng ngôn từ; sự chuyển nghĩa, tạo sinh nghĩa trong việc sử dụng các biện pháp tu từ; sự trừu tượng hoá, khái quát hoá các trạng thái tình cảm, hiện thực và khát vọng sống của con người; sự hữu hình hoá hoặc vô hình hoá các cảm xúc, đối tượng; sự âm thanh hoá theo quy luật của khoa phát âm thực nghiệm học (phonétique expérimentale)...đã làm cho thi ca có sức quyến rũ bội phần (multiple) so với các thể loại nghệ thuật ngôn từ khác.
LÊ XUÂN LÍTHỏi: Mã Giám Sinh sau khi mua được Kiều, Mã phải đưa Kiều đi ròng rã một tháng tròn mới đến Lâm Tri, nơi Tú Bà đang chờ đợi. Trên đường, Mã đâm thèm muốn chuyện “nước trước bẻ hoa”. Hắn nghĩ ra đủ mưu mẹo, lí lẽ và hắn đâm liều, Nguyễn Du viết: Đào tiên đã bén tay phàm Thì vin cành quít, cho cam sự đờiĐào tiên ở đây là quả cây đào. Sao câu dưới lại vin cành quít? Nguyễn Du có lẩm cẩm không?
CHU ĐÌNH KIÊN1. Có những tác phẩm người đọc phải thực sự “vật lộn” trên từng trang giấy, mới có thể hiểu được nhà văn muốn nói điều gì. Đó là hiện tượng “Những kẻ thiện tâm” (Les Bienveillantes) của Jonathan Littell. Một “cas” được xem là quá khó đọc. Tác phẩm đã đạt hai giải thưởng danh giá của nước Pháp là: giải Goncourt và giải thưởng của Viện hàn lâm Pháp.
PHONG LÊSinh năm 1893, Ngô Tất Tố rõ ràng là bậc tiền bối của số rất lớn, nếu không nói là tất cả những người làm nên diện mạo hiện đại của văn học Việt Nam thời 1932-1945. Tất cả - gồm những gương mặt tiêu biểu trong phong trào Thơ mới, Tự Lực văn đoàn và trào lưu hiện thực đều ra đời sau ông từ 10 đến 20 năm, thậm chí ngót 30 năm.
HẢI TRUNGHiện tượng ngôn ngữ lai tạp hay gọi nôm na là tiếng bồi, tiếng lơ lớ (Pidgins và Creoles) được ngành ngôn ngữ học đề cập đến với những đặc trưng gắn liền với xã hội. Nguồn gốc ra đời của loại hình ngôn ngữ này có nhiều nét khác biệt so với ngôn ngữ nói chung. Đây không chỉ là một hiện tượng cá thể của một cộng đồng ngôn ngữ nào, mà nó có thể phát sinh gắn liền với những diễn biến, những thay đổi, sự phát triển của lịch sử, xã hội của nhiều dân tộc, nhiều quốc gia khác nhau.
BÙI NGỌC TẤN... Đã bao nhiêu cuộc hội thảo, bao nhiêu cuộc tổng kết, bao nhiêu cuộc thi cùng với bao nhiêu giải thưởng, văn chương của chúng ta, đặc biệt là tiểu thuyết vẫn chẳng tiến lên. Rất nhiều tiền của bỏ ra, rất nhiều trí tuệ công sức đã được đầu tư để rồi không đạt được điều mong muốn. Không có được những sáng tác hay, những tác phẩm chịu được thử thách của thời gian. Sự thất thu này đều đã được tiêu liệu.
NGUYỄN HUỆ CHICao Bá Quát là một tài thơ trác việt ở nửa đầu thế kỷ XIX. Thơ ông có những cách tân nghệ thuật táo bạo, không còn là loại thơ “kỷ sự” của thế kỷ XVIII mà đã chuyển sang một giọng điệu mới, kết hợp tự sự với độc thoại, cho nên lời thơ hàm súc, đa nghĩa, và mạch thơ hướng tới những đề tài có ý nghĩa xã hội sâu rộng.
NGUYỄN TRƯƠNG ĐÀNĐã nhiều sử liệu viết về cuộc xử án vua Duy Tân và các lãnh tụ khởi xướng cuộc khởi nghĩa bất thành tháng 5-1916, mà trong đó hai chí sĩ Thái Phiên - Trần Cao Vân là hai vị đứng đầu. Tất cả các sử liệu đều cho rằng, việc hành hình đối với Thái Phiên, Trần Cao Vân, Tôn Thất Đề, Nguyễn Quang Siêu diễn ra vào sáng ngày 17-5-1916. Ngay cả trong họ tộc hai nhà chí sĩ, việc ghi nhớ để cúng kỵ, hoặc tổ chức kỷ niệm cũng được tính theo ngày như thế.
PHONG LÊBây giờ, sau 60 năm - với bao là biến động, phát triển theo gia tốc lớn của lịch sử trong thế kỷ XX - từ một nước còn bị nô lệ, rên xiết dưới hai tầng xiềng xích Pháp-Nhật đã vùng dậy làm một cuộc Cách mạng tháng Tám vĩ đại, rồi tiến hành hai cuộc kháng chiến trong suốt 30 năm, đi tới thống nhất và phát triển đất nước theo định hướng mới của chủ nghĩa xã hội, và đang triển khai một cuộc hội nhập lớn với nhân loại; - bây giờ, sau bao biến thiên ấy mà nhìn lại Đề cương về văn hoá Việt Nam năm 1943(1), quả không khó khăn, thậm chí là dễ thấy những mặt bất cập của Đề cương... trong nhìn nhận và đánh giá lịch sử dân tộc và văn hoá dân tộc, từ quá khứ đến hiện tại (ở thời điểm 1943); và nhìn rộng ra thế giới, trong cục diện sự phát triển của chủ nghĩa tư bản hiện đại; và gắn với nó, văn hoá, văn chương - học thuật cũng đang chuyển sang giai đoạn Hiện đại và Hậu hiện đại...
TƯƠNG LAITrung thực là phẩm chất hàng đầu của một người dám tự nhận mình là nhà khoa học. Mà thật ra, đâu chỉ nhà khoa học mới cần đến phẩm chất ấy, nhà chính trị, nhà kinh tế, nhà văn hoá... và bất cứ là "nhà" gì đi chăng nữa, trước hết phải là một con người biết tự trọng để không làm những việc khuất tất, không nói dối để cho mình phải hổ thẹn với chính mình. Đấy là trường hợp được vận dụng cho những người chưa bị đứt "dây thần kinh xấu hổ", chứ khi đã đứt mất cái đó rồi, thì sự cắn rứt lương tâm cũng không còn, lấy đâu ra sự tự phản tỉnh để mà còn biết xấu hổ. Mà trò đời, "đã trót thì phải trét", đã nói dối thì rồi cứ phải nói dối quanh, vì "dại rồi còn biết khôn làm sao đây".
MÃ GIANG LÂNVăn học tồn tại được nhiều khi phụ thuộc vào độc giả. Độc giả tiếp nhận tác phẩm như thế nào? Tiếp nhận và truyền đạt cho người khác. Có khi tiếp nhận rồi nhưng lại rất khó truyền đạt. Trường hợp này thường diễn ra với tác phẩm thơ. Thực ra tiếp nhận là một quá trình. Mỗi lần đọc là một lần tiếp nhận, phát hiện.
HÀ VĂN LƯỠNGTrong dòng chảy của văn học Nga thế kỷ XX, bộ phận văn học Nga ở hải ngoại chiếm một vị trí nhất định, tạo nên sự thống nhất, đa dạng của thế kỷ văn học này (bao gồm các mảng: văn học đầu thế kỷ, văn học thời kỳ Xô Viết, văn học Nga ở hải ngoại và văn học Nga hậu Xô Viết). Nhưng việc nhận chân những giá trị của mảng văn học này với tư cách là một bộ phận của văn học Nga thế kỷ XX thì dường như diễn ra quá chậm (mãi đến những thập niên 70, 80 trở đi của thế kỷ XX) và phức tạp, thậm chí có ý kiến đối lập nhau.
TRẦN THANH MẠILTS: Nhà văn Trần Thanh Mại (1908-1965) là người con xứ Huế. Tên ông đã được đặt cho một con đường ở đây và một con đường ở thành phố Hồ Chí Minh. Trần Thanh Mại toàn tập (ba tập) cũng đã được Nhà xuất bản Văn học phát hành năm 2004.Vừa rồi, nhà văn Hồng Diệu, trong dịp vào thành phố Hồ Chí Minh dự lễ kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà văn Trần Thanh Mại, đã tìm thấy trang di cảo lưu tại gia đình. Bài nghiên cứu dưới đây, do chính nhà văn Trần Thanh Mại viết tay, có nhiều chỗ cắt dán, thêm bớt, hoặc mờ. Nhà văn Hồng Diệu đã khôi phục lại bài viết, và gửi cho Sông Hương. Chúng tôi xin cám ơn nhà văn Hồng Diệu và trân trọng giới thiệu bài này cùng bạn đọc.S.H
TRẦN HUYỀN SÂMLý luận văn học và phê bình văn học là những khái niệm đã được xác định. Đó là hai thuật ngữ chỉ hai phân môn trong Khoa nghiên cứu văn học. Mỗi khi khái niệm đã được xác định, tức là chúng đã có đặc trưng riêng, phạm trù riêng. Và vì thế, mục đích và ý nghĩa của nó cũng rất riêng.
TRẦN THÁI HỌCCó lẽ chưa bao giờ các vấn đề cơ bản của lý luận văn nghệ lại được đưa lên diễn đàn một cách công khai và dân chủ như khi đất nước bước vào thời kỳ đổi mới. Vấn đề tuyên truyền trong nghệ thuật tuy chưa nêu thành một mục riêng để thảo luận, nhưng ở nhiều bài viết và hội nghị, chúng ta thấy vẫn thường được nhắc tới.
NGUYỄN TRỌNG TẠO...Một câu ngạn ngữ Pháp nói rằng: “Khen đúng là bạn, chê đúng là thầy”. Câu ngạn ngữ này đúng trong mọi trường hợp, và riêng với văn học, Hoài Thanh còn vận thêm rằng: “Khen đúng là bạn của nhà văn, chê đúng là thầy của nhà văn”...