LÊ THỊ KIM SƠN
(Cho những điều hạnh ngộ ngắn ngủi)
Minh họa: Đặng Mậu Tựu
1. Mẹ hãy bay đi, con sẽ rũ lại đôi cánh xưa ẩm thấp để mẹ dang ra đón đường gió mặt trời. Mẹ lặng im, cái lặng im không vô hồn như những ngày qua ẩm thấp, mà dãn rộng ra ánh sáng tự hào. Bay, cái ngôn từ suốt một thời tuổi trẻ, mẹ mộng mơ trên những tầng không, những câu thơ lồng lộng gió, những mơ ước ngập tràn ánh sáng, những niềm vui khô dại thuở ban đầu, cả những mối tình chưa thành hình sâu lắng nhưng đủ đọng thành giọt trong ký ức ngày dài.
2. Cái gác xép, cái gác mà ngày xưa mẹ hay nép mình vào đó để đắm mình trong những câu chuyện, những vần thơ đã phủ kín bụi, mẹ khóc cho quãng thời gian đã qua, khóc cho những giấc mơ đã khép. Có rất nhiều quyển truyện mẹ đã đọc, có rất nhiều quyển sách mẹ chưa kịp đọc đều được mẹ nâng niu cất giữ như báu vật, đó là thiên đường riêng của mẹ trong ngôi nhà nặng nề mẹ chọn, đó là nơi cả bố con, cả con không được chạm đến, đó là nơi lưu giữ trận đòn đến giờ con vẫn nhớ khi đặt chân vào, khi vẽ vội ông mặt trời vào một quyển sách của mẹ, trận đòn của mẹ không làm con sợ bằng nước mắt của mẹ. Những giọt nước mắt mà khiến một đứa trẻ lên năm của con thấy rúm ró vì sự tuyệt vọng, vì bất lực, vì đau khổ chan chứa trong đó. Con lặng lẽ nhìn mẹ như một chiếc bóng trong nhà mà không thể hiểu, không thể chạm tới bởi mẹ luôn bận rộn với chiếc bàn may, với chiếc bếp dầu, với những lem nhem con gây ra, với những cơn say mệt nhoài của ba. Mọi thứ trong nhà mình diễn ra rời rạc, lạ lùng và chông chênh đến nguy hiểm vậy mà không hiểu tại sao nó lại tồn tại rất lâu, rất thản nhiên qua thời gian như không hề tồn tại.
Những vần thơ con gõ ra rời rạc nhưng vang tiếng trong đêm sâu thẳm, chẳng điều gì tồn tại trong đợt cảm xúc bất thường này, những câu chữ rơi ra con chỉ nhặt lấy, xâu chuỗi lại thành dòng, bay lên, bay lên bất chợt.
3. Biết làm sao được với những lỡ làng thời con gái, biết làm sao được với ám ảnh thời gian, biết làm sao được với đôi cánh một thời cũ kĩ. Mẹ đã xếp lại những ước mơ, xếp lại đôi cánh mộng tưởng để đối đầu với cuộc sống ảm đạm thời tem phiếu, những dòng thơ xếp lại, những “hội chợ phù hoa” tắt lịm mặc cho trong lòng mẹ “đỉnh gió hú”, mẹ lạc nhịp thơ với bố, lạc nhịp thơ với những đứa con khát sữa quấy khóc, lạc nhịp thơ với cuộc sống hàng ngày. Mẹ xếp lại hay vô tình quên mất những dòng thơ thời con gái ngập tràn, cái giá sách một thời chắt chiu ấp ủ và nâng niu, mẹ không có thời gian sờ lại, để “Trăm năm cô đơn” lăn lóc, để “trà hoa nữ” lặng ngắt mùi hương. Có thể nào trong những đêm mưa gió, mẹ cất qua một gánh lo toan, rướn mình lên không trung nạt nộ để tìm lại cho mình cuồng nộ, nhưng cơn say của ba, tiếng khóc của con lại ngăn mẹ lại. Mẹ lại biết mình là đàn bà, lại biết là đôi cánh của mẹ không thể dùng đến nữa, đôi chân mẹ đã tự quấn vào bản năng của người mẹ, của người vợ bao đời im lặng, sẽ là như thế, nhưng con thì phải khác, con phải bay xa về phía mặt trời, dù cho đó có là đôi cánh của Icarus** đi chăng nữa thì con cũng sẽ không phải day dứt như mẹ.
4. Đôi cánh của con không có màu trắng sáng của thiên thần, không trong trẻo như ban mai tuổi mười tám, nó mang nặng cái nhìn của người đàn bà ưu tư, trầm cảm, mặc cảm với sự bèo bọt, mặc cảm với sự vụn vặt của người đàn bà. Nó châm chích vào cuộc sống, vỗ ào ạt vào cuộc sống những vần thơ đen lộng lẫy như đôi cánh của ác quỷ, con muốn rứt mình ra khỏi những lo sợ về một phận đen đủi. Trong biển đêm hun hút, con lội chân trần để cảm nhận mình là hạt cát nhỏ, có thể mất hút, có thể tan biến vào đêm, vào hàng ngàn con sóng. Đáng ra con không nên chọn cho mình mối duyên với đám câu chữ, đáng ra con nên thoát khỏi cái bóng lầm lũi của mẹ trong ngôi nhà, con lạc lõng với chính mình. Đôi cánh màu đen không đưa con lên tới thiên đường, nhưng cũng không để con rớt sâu dưới đáy địa ngục, mà chỉ lửng lơ, lướt qua mọi niềm đau, mọi niềm hạnh phúc một cách hờ hững và vô cảm. Nỗi đau không chạm đất, niềm vui không chạm đất, mơ ước không chạm đất mà cũng không thể với tới bầu trời, không thể chạm tay vào vì sao vô định nào thì làm sao con có thể không ray rứt?
5. Đời người được mấy chốc con nhỉ, mẹ chẳng kịp biết thời gian nào đã qua, mẹ không biết niềm mơ ước của mình đã trôi tuột đi đâu mất cho đến ngày nhìn thấy dòng thơ con, tự do như đôi cánh, đăm đắm những niềm đau kì lạ, mẹ bất ngờ nhìn lại mình. Nhìn lại mái tóc đã bạc màu, mẹ đã sáu mươi mất rồi, còn bay đi đâu được nữa, nhìn lại hình dáng thay đổi bởi thời gian, bởi dấu hiệu làm mẹ, bởi những suy nghĩ vụn vặt đã đánh dấu lên khuôn mặt mẹ những nếp nhăn đến chính mẹ cũng phải giật mình. Còn dòng thơ, những dòng thơ đã mất vào cái ngày mẹ đốt cho trời, mẹ đốt cho mẹ chấm dứt bay bổng, cho đôi chân mẹ chạm vào đất, chạm vào niềm đau của người phụ nữ chỉ biết trốn trong xó bếp làm nội trợ. Làm sao mẹ dám nhìn vào khoảng thời gian của chính mình để khóc được đây? Những câu thơ thời mẹ đã cũ, đã xếp cánh trong lòng mẹ rồi, những giỏ hoa cho mẹ cái ánh nhìn tươi tỉnh cũng đang héo tàn rồi, nhưng chồi non đang lên, và con đang thay mẹ đi tiếp cái kiếp đa mang của người đàn bà có thấm chút chữ nghĩa vần vò, để con cũng đang quanh quẩn trong chính mình không bứt phá ra được.
6. “Đàn ông làm bằng đất, đàn bà làm bằng nước. Người đàn ông bằng đất yêu người đàn bà bằng nước, nước và đất trộn lẫn với nhau, đàn ông nhờ cái thuần khiết của nước mà trở nên sạch hơn, người phụ nữ, thì ngược lại, bị trộn lẫn với đất nên bị vấy bẩn”*. Có phải vậy không mẹ? Có phải vậy không mà người ấy nhẹ nhàng đi qua con đến một làn nước khác để gột rửa cho mình, để mặc con với những dòng thơ trầm cảm, với nỗi chông chênh không ngờ, với bàn tay chới với cần được ủ ấm khi về đêm. Làm sao với sự vấy bẩn của đất? Con không thể tự mình gột sạch mà lại chìm sâu hơn trong vũng bùn của nỗi nhớ. Những làn khói mơ màng nhắc con đến một ai đó, một số mệnh cũng mơ màng như chính con. Không đủ miền thương để có thể khóc cho những cánh hoa khi tàn cuộc, cũng không đủ miền yêu để có thể thốt lên lời níu kéo hay hối tiếc, con chỉ có sự kiêu hãnh cô độc, con chỉ nhớ đến cái gác chất đầy những quyển sách ố vàng con chỉ có thể đem sự yếu đuối của một người đàn bà về đó rồi khóc. Câu và chữ lộn xộn rơi nhòe trang giấy, những triền miên mất ngủ, để những ngày buồn thắt lại khi thấy con cũng tự hành mình thành một chiếc bóng như mẹ.
7. Mẹ không thể khuyên can con, con gái. Bởi đơn giản, mẹ cũng đã sống trong day dứt của chính mình. Mẹ còn chưa thể thanh thản trong suy nghĩ của mình thì làm sao mẹ có thể cho con lời khuyên, nếu mẹ có thể áp đặt cho con một cuộc sống như chị Hai thì chắc gì con đã không hạnh phúc? Suy cho cùng đàn bà vẫn là đàn bà, vẫn khao khát một tình yêu, vẫn cần một bờ vai để che chở, vẫn tầm thường những vụn vặt lo toan không thể cất qua một bên được. Chiếc áo lông giờ đã biến mất, làm sao để chân con có thể chạm vào đời thường mà không lo nghĩ được đây?
8. Những tình yêu lần lượt qua, đâu phải con không cảm xúc? Đâu phải con không xót xa cho mình, cho ánh nhìn của mẹ, đâu phải con không tiếc nuối cho chính mình. Cái gác xép nơi mẹ dành cho góc nhỏ tâm hồn mơ mộng của mẹ, giờ được con lưu giữ, rúc sâu mình vào đó, trút những dòng phiền muộn đa đoan mà không ai chạm tới. Con thấy một phần mẹ trong con khắc khoải, con muốn thoát ra. Phía cuối con đường là ánh sáng, là bóng đêm hay là hố bùn lầy lội, con không biết, nhưng con sẽ tiếp bước, sẽ cố gắng tìm đến cuối con đường. Đôi chân con vô định, dật dờ không niềm vui dù vẫn biết đây là con đường mình chọn. Những nơi con qua, gắn lại những bức ảnh kỉ niệm, nắn nót đề nét chữ nghiêng yếu đuối nhưng gai góc, gửi về cho mẹ và cho một ai đó để có thể yên tâm trong thoáng chốc. Những cột mốc thời gian vẫn đều đặn trôi, trong lòng mẹ con vẫn vậy, nhưng trong lòng một ai đó con còn vậy không hay đã mất hút rồi. Không phải con đang kiểm nghiệm, mà thực sự là con đang trốn chạy hiện thực, con vẫn chưa dám dừng lại.
9. Cái ám ảnh chính mình không phải là những bước đi đầu tiên nhất, mà chính là điểm dừng chân cuối cùng. Con người ta không dám bước đi tiếp vì người ta hoảng loạn không thấy được cái kết của mình, sợ không thấy được giấc mơ mà mình tô vẽ lên những màu son đỏ lòe, đỏ đến mức những gì chân thực nhất đang hiện hữu ngay cạnh bên mình cũng trở nên vô hình trước nỗi thất vọng đó. Mẹ cũng từng như vậy, cũng từng quên mất con đường mình đi, để trôi dạt ra xa khỏi chính gia đình của mình, lay lắt như chiếc bóng. Nhưng đến ngày mẹ soi bóng lại chính mẹ qua con, mẹ thấy rằng mẹ không phải hối tiếc nhiều đến thế, hạnh phúc ở gần mẹ nhất có khi không phải là bố, không phải là con mà chính là cái gia đình mẹ đã bỏ lửng. Thiên chức vốn có của người phụ nữ sẽ giúp con nhận ra, điều đơn giản nhất của những cuộc tìm tòi là còn có ai đó đợi chờ và mong nhớ đến mình. Và bay đi đến khi nào con muốn, mẹ, ba và gia đình nhỏ này sẽ vẫn đợi ngày con tìm về đúng những miền thương.
L.T.K.S
(SH305/07-14)
------------------------------
* Hồng lâu mộng - Tào Tuyết Cần
** Đôi cánh của Icarus (Thần thoại Hy Lạp).
TRẦM NGUYÊN Ý ANHÔng Nhâm bước chầm chậm theo con đường tráng xi-măng ngoằn ngoèo trong con hẻm nhỏ. Căn nhà ông ở cuối xóm, một trệt, một lầu... mới tinh. Cánh cửa sắt đóng im ỉm. Ông ngồi bệt xuống nền xi-măng vì chân ông đã mỏi. Lẽ ra, khi mấy đứa con ông chưa bàn nhau cất lại căn nhà, ông đã có thể đẩy cánh cửa rào bằng tre và đàng hoàng bước vào nhà mình.
XUÂN CHUẨNĐể rồi tôi kể cho ông nghe về lai lịch cái quạt, để ông ông khỏi coi tôi là Thằng Bờm có cái quạt mo. Cái thời quạt điện quạt đá, máy lạnh mà cứ bo bo cái quạt kè, thỉnh thoảng lại đạp phành phạch như mẹ hàng cá thách lên giữa chợ. Cũng chẳng có gì li kỳ, hay mùi mẫn rơi lệ, chỉ là chuyện đời tầm phào.Hai ông trải chiếu ngồi giữa sân, nhâm nhi chén trà, ông Thân nói với đại tá Tiến về hưu như vậy khi đại tá ngỏ ý thích cái quạt kè của ông.
TRẦN THỊ TRƯỜNG Bim chào đời vào lúc kém 19 phút. Trăng hạ tuần phun nhẹ màu đục của sữa vào bầu trời. Hôm sau trời lất phất mưa. Bố nói với bà ngoại trước khi đi làm: "Nếu không thấy con về thì bà giúp con cùng nhà con nuôi cháu". Câu nói ám ảnh làm trí tưởng tượng của bà ngoại nhiều lần thắt lại. Sau này nhiều khi bà ngoại sợ cả cái bóng của mình.
NAM TRUNG Ông Hãnh cứ đi tới đi lui trong phòng khách nhà ông, vừa đi vừa quạu cọ lẩm bẩm: thằng Hùng nó nói vậy là nó có ý coi thường mình, nó dám trứng khôn hơn vịt. Rồi mày sẽ biết tay ông. Ông sẽ cho mày còn lâu mới được vào Đảng, ông sẽ bác tất cả những đề xuất về mày...
HOÀNG THÁI SƠNKhi tôi lớn lên thì nội tôi đã mất từ lâu nhưng thỉnh thoảng dân làng vẫn nhắc đến người với niềm cảm mến về những chuyện không ít ly kỳ. Ông tôi rất khoẻ, người tròn vo, đen như sừng, tục danh Cu Trắt - phương ngữ vùng quê tôi nghĩa là nhỏ và rắn chắc. Ông ham mê võ thuật, thạo côn quyền, thuở trai thường đóng vai ông địa trong đám múa lân. Đám múa năm nào hễ thiếu ông là coi như nhạt trò, dân làng chẳng ai buồn xem. Người ta đồn ông tôi tài ba lỗi lạc, như có thể đi trên lửa, nhảy qua nóc nhà, còn những thứ chui vào hậu cung đình làng mà không cần dở ngói là xoàng... Kho chuyện về ông ngày càng dày do mồm miệng dân gian thêu dệt thêm, tuy nhiên trong đó nhiều chuyện là có thật.
PHAN XUÂN HẬUTôi trở về quê sau mười năm xa cách. Quê tôi nằm cuối con sông Vẹn, con sông này là nhánh của sông Dinh, bắt nguồn từ dãy núi Gám, chảy qua bến Dền. Nơi đây xưa kia là kinh đô của vua Dền. Vua Dền tụ tập lực lượng chống lại nhà Trần khi đó đang trấn áp nhà Lý. Vua Dền là hậu duệ của Lý Thái Tổ, ông không chịu sự chuyên quyền của vua tôi Trần Thủ Độ bèn lập căn cứ ở miền Tây Yên Thành, tức quê tôi, và Dền là kinh thành của ông, dân quen gọi ông là vua Dền.
NGUYỄN VĂN VINHTết Mậu Thân năm ấy tôi tròn mười sáu tuổi. Soi gương, tôi thấy y xì một con bé tóc lơ xơ hoe nắng, xấu tệ.
CHÂU DIÊNĐơn vị của tôi đi bộ từ một tỉnh miền Trung, lên qua Mường Phăng thì Điện Biên đã giải phóng. Sau một tháng đi bộ nhưng gần như chạy bộ, chúng tôi được phép nghỉ lại hai ngày ở một bản, hồi đó bản này nằm khá sâu trong rừng, nhưng nay thì nó đã ở bên một nhánh đường mới làm dẫn ra phố huyện Tuần Giáo để nối vào con đường số 6 chạy tuốt lên Điện Biên Phủ.
NGUYỄN TRƯỜNGLàng Hạ nằm phía hạ nguồn sông La Ngà. Đất chật. Người đông. Đói nghèo thành nếp. Hồi hai bên đánh nhau, nơi đây là vùng địch hậu. Giải phóng hơn chục năm mà làng Hạ đói nghèo vẫn hoàn nghèo đói. Không ít người bỏ làng đi xa chẳng thèm ngoái cổ nhìn lại. Vậy mà hơn mười năm lại đây, nhờ vực dậy cái nghề tơ tằm truyền thống vốn có từ xưa, làng Hạ đang trở thành một làng nghề giàu có nhất nhì trong vùng. Nhà cũ lỗi thời phá đi xây mới. Đường làng bùn lầy được thay bê-tông. Trường tiểu học tranh tre nứa lá hồi nào nay lên hai tầng. Điện lưới dọc ngang khắp làng đã đẩy năng suất ươm tơ kéo sợi lên cao chưa từng thấy. Chất lượng tơ tằm đạt chuẩn xuất khẩu. Hàng bán chạy hơn cả tôm tươi. Thu nhập người dân ngày một cao.
LÊ TRÂMNgồi với tôi và Kh là một đôi nam nữ còn khá trẻ. Chàng thanh niên, theo lời gã, vừa mới về từ Thái Lan sau khi trúng một hợp đồng béo bở. Gã là đại diện của một công ty xuất nhập khẩu nổi tiếng ở bên ấy.
NGÔ TỰ LẬPCó lẽ tôi đã ngủ rất lâu trước khi bị lay dậy một cách dữ dội. Tôi cố nằm thêm, mặc dù đó không phải là thói quen của một người lính cũ. Thường thì tôi bật dậy ngay. Trước khi tôi vào lính, cha tôi, một đại tá từng trải ba cuộc chiến tranh, chỉ dặn mỗi một câu: “Hãy chồm dậy ngay tiếng còi báo động đầu tiên!”. Lời dạy của ông tôi làm theo trong suốt thời gian tại ngũ và cả khi giải ngũ. Nhưng có những lúc ta không làm chủ được mình. Tôi thấy mình đau ê ẩm và phải một lúc khá lâu sau tôi mới chậm chạp mở mắt.
PHẠM THỊ CÚCTừ những ngày thơ bé còn cắp sách đến trường cho đến khi đã bước vào đời, con cái đã khôn lớn và trưởng thành, trong ký ức của tôi vẫn luôn lưu giữ những hình ảnh sinh động và kỳ diệu của hàng ngàn con cò trắng rợp cả cánh đồng bát ngát, những cánh rừng và vườn cây trĩu nặng vô vàn chim chóc, hình ảnh chim cò thân thiết đậu cả trên vai người, trên đầu người, quẩn dưới chân người... là chuyện của Vùng Đồng tháp Mười qua những trang viết hấp dẫn của các nhà văn Sơn Nam và Đoàn Giỏi.
MAI NINHTrong khoảng giữa buổi chiều thăm viếng cơ sở và dạ tiệc, tôi chạy về nhà thay quần áo. Dưới vòi nước ấm, tôi nao nao xúc động nhớ lại từng khuôn mặt bạn bè. Ngoài một hai người thỉnh thoảng gặp nhau nhờ ở lại nơi này sau khi tốt nghiệp, còn hầu hết thì sau một phần tư thế kỷ đã qua đi, bây giờ mới tái ngộ. Làm sao không ngẩn người trước những tên bạn ngày xưa mặt mũi căng hồng tí tửng nhố nhăng, giờ đây làn da gấp nếp, râu ria đạo mạo, ra dáng sếp lớn sếp nhỏ cả rồi. Và dấu chân chim của thời gian càng rõ rệt hơn nữa, nơi những cô đầm bạn gái của tôi.
MAI NINH- Rối, Rối ơi! Dậy đi nào. - Nằm mãi đây cũng đừng hòng có ai lượm xác đem chôn. - Dậy đi! Rối ơi.
ANH DƯƠNGCòn sống đến nay, ông tôi phải hơn trăm tuổi. Trước ngày chết, ông kể cho tôi câu chuyện thương tâm này.
NGUYỄN XUÂN HOÀNG1. Từ Huệ nằm thiêm thiếp bên cạnh án thư. Tóc râu chàng bạc trắng. Đêm qua, ngoài trời mưa gió to quá. Chàng không làm sao ngủ được. Từ Huệ sợ mưa, sợ phải nghe thấy những âm thanh cuồng nộ của trời đất. Điệu luân vũ ấy là nỗi ám ảnh khi chàng còn là một anh khóa vô danh.
PHAN TUẤN ANHLớp Lý trong một chiều nhốn nháo. Vài đứa con gái ngồi sụt sùi cho nhân vật nữ trong phim trên ti vi chết sớm và nguyền rủa đạo diễn như một tay giết người. Những đứa con trai thì tiếc rẻ cho một vài pha bóng hụt tối qua, để lại hậu quả là mất hẳn một "tháng lương" mà nhẽ ra đã có thể lĩnh sáng nay tại... chủ quán.
NGUYỄN VIỆT HOÀLGT: Khi ánh sáng phản chiếu từ mặt trái đồng tiền ùa vào cánh cửa làng mở rộng, “sức nóng” của nó gần như thiêu rụi mọi nền tảng đạo đức một bộ phận không nhỏ đám thượng lưu gồm cả quan viên hương lý. Căn bệnh mà tác giả Nguyễn Việt Hoà mổ xẻ trong truyện ngắn dưới đây, dẫu chưa cao tay để diệt bằng hết những vi-rút-làng, song việc ngăn chặn một đại dịch bắt đầu là có thể...S.H
TRẦN HẠ THÁP1/ Người đàn ông đang huơ rìu. Liên tục những bi củi tươi bị xé phanh, toang toác. Gió lạnh một buổi tàn đông, sắp Tết nhưng trên khuôn ngực mồ hôi loang lổ như mưa. Xóm lò heo. Buổi sáng chưa mở mắt đã hỗn độn, mù trời hơi nước. Cái thế giới được khoanh vùng bằng tiếng kêu bi thiết các con vật thảm tử. Mùi phân chuồng phát tán, nghẹt thở. Tiếng người lê la trả giá, mặc cả. Tiếng cười rộ lên đắc ý trộn lẫn tiếng chửi thề tục tằn đe doạ. Đâu đó, mơ hồ giọng trẻ con khóc và tiếng ru hò ngái ngủ xa xôi…
NGUYỄN NGỌC LỢITôi diện bộ "téc gan" quân nhu, dắt súng vào người, dặn dò cậu lái xe rồi hoà vào dòng người đi ra sân bay. Được giao nhiệm vụ về nước sắm hàng, gặp một sự kiện quan trọng, tôi không muốn bỏ lỡ dịp được chứng kiến. Thị xã Lộc Ninh năm 1973 đã trở thành thủ đô của chính phủ cách mạng.