Nhà thơ Xuân Quỳnh - Ảnh: internet
Thời gian là thước đo, là chiều kích của mối quan hệ giữa người làm thơ và người đọc. Người làm thơ sống dưới vùng trời khác, sinh ra trong một gia đình khác. Người đọc thơ đi lại, nói năng trên mảnh đất khác, giữa bạn bè khác, thậm chí từ một lịch sử khác. Những kiến thức và suy luận không mấy khi giúp họ đến gần nhau. Nhưng sự xúc động, nỗi hồi hộp vui sướng, cảm giác bất an mơ hồ: chúng làm được điều ấy. Từ trong vòng vây ràng buộc của thời gian hữu hạn và cái chết, nhà thơ truyền cho người khác kinh nghiệm của đời sống riêng mình. Nếu thời gian là sự chiêm nghiệm giữa một người và một người thì không gian là tương tác giữa một người và những người đương thời, bạn bè, đất nước. Không gian ấy có thể nhỏ bé, nhưng tiêu biểu cho một giai đoạn lịch sử, những mất mát được ghi lại lặng lẽ, kín đáo, khiêm tốn. Sự khôn ngoan của các chi tiết, ngày nay chúng ta ít thấy. Tuổi thơ con có những gì/ Có con cười với mắt tre trong hầm Không gian ấy bất tận, vì chính là thiên nhiên mà chị từ đó lớn lên và yêu mến. Thiên nhiên không phải là đối tượng của thơ Xuân Quỳnh: muốn nói về thiên nhiên thì phải tách rời ra khỏi nó, nhìn ngắm nó như một thực tại tương đối biệt lập. Mưa đổ bụi êm đềm trên bến vắng,/ Đò biếng lười nằm mặc nước sông trôi;/ Quán tranh đứng im lìm trong vắng lặng/ Bên chòm xoan hoa tím rụng tơi bời. (Anh Thơ) Chị cũng không tìm cách trở về với thiên nhiên như các nhà thơ lãng mạn thời trước ở thành thị. Tôi không rõ tiểu sử Xuân Quỳnh, nhưng đọc chị tôi có ấn tượng về một người lớn lên hay từng sống ở nông thôn. Ai đã sống ở nông thôn đều cảm được rằng con người với thiên nhiên là một. Thiên nhiên trở thành một phần của tâm hồn, tâm cảnh. Có hai khuynh hướng trong thơ trong mối quan hệ giữa nhà thơ và thiên nhiên, một khuynh hướng tự đồng hóa với thiên nhiên và khuynh hướng thứ hai, xem thiên nhiên là môi trường của những mối quan hệ và những sự thật khác, là nơi ký gởi thông điệp. Đọc thơ Xuân Quỳnh tôi nhận ra cách đây vài chục năm, mặc dù trong thời chiến tranh, xã hội mà chị sống trật tự, an bình. Trong ký ức của tôi, xã hội nơi tôi lớn lên cũng an bình như thế. Ngay trong chiến tranh. Tôi thường ngạc nhiên về nhận xét này. Ngọn gió đông làm má ửng hồng/ Giữa đường cày con sáo đứng bâng khuâng Chị không chỉ là người tình, một mình bâng khuâng nhớ người yêu, mà trở thành người làm chứng của thiên nhiên, một thiên nhiên càng ngày càng mất đi. Nhưng hình ảnh con sáo đứng đó lâu dài, in bóng lên nền trời. Đó là một hòa hợp, và trên hậu cảnh ấy, sự chia ly, xa cách như những nhát cắt lúc nào cũng mới và đau đớn. Ngờ ngợ bóng ai xa/ A! đúng rồi bóng cha/ Tôi ôm người nức nở Thơ như thế chưa thể gọi là thơ hay, nhưng nó làm người ta xúc động. Đó là giọng thương cảm mà các nhà phê bình đương đại phương Tây thường chê trách, nếu không muốn nói là chế nhạo. Nhưng tôi tin rằng có thể có những quy luật tình cảm riêng biệt. Bởi vì lúc khác, nhớ mẹ, chị biết nén mình lại, khiến cho tâm sự có sức tỏa xa trong câu thơ xúc động: Mẹ ơi mẹ từ trong lòng đất Sự không thỏa mãn đối với nhu cầu tinh thần phát sinh cô đơn. Xuân Quỳnh là người cô đơn, mặc dù có thể trong đời thực, chị sống yêu thương, chan hòa với người khác và bên chồng, bên con. Sao mẹ chẳng sinh con ở dưới những cơn mưa/ Lại sinh con nơi đảo khô cằn thế Mặc dù chị nói về một hòn đảo nhỏ, trong hoàn cảnh cụ thể. Cô đơn đến nỗi khi muốn vui, muốn đến bên nhau, chị đâm ra vội vàng, có chút vụng về: Tay ta nắm lấy tay người/ Dẫu qua trăm suối ngàn đồi cũng qua Tình yêu là động lực lớn nhất chi phối cảm hứng thơ ca của chị. Tình yêu ấy đi qua một đất nước như thế này: Những đường ray chìm trong cỏ dại/ Những nhà ga lau sậy um tùm Đó là chị viết về chiến tranh. Trong những câu thơ ấy có cái bùi ngùi, tiếc nuối, buồn bã, thương xót. Tình thương trở thành tình yêu, cắt nghĩa chất hy sinh của chị trong nhiều bài thơ tình. Mặt khác, khi lên đỉnh cao, tình yêu bao giờ cũng vui, cũng hân hoan rực rỡ. Khi yêu, ai mà muốn điều gì khác, ngoài niềm vui, muốn được hét lên? Nhưng tôi không mấy khi tìm thấy điều ấy trong thơ Xuân Quỳnh cũng như nhiều nhà thơ nữ khác cùng thời. Tính cách văn hóa của nước mình chăng? Chị khiêm tốn: Chỉ riêng điều được sống cùng nhau/ Niềm sung sướng với em là lớn nhất/ Trái tim nhỏ nằm trong lồng ngực Nói xong, chị quay đi, lo việc nhà cửa, chồng con: Chúng tôi chỉ là những người đàn bà bình thường không tên tuổi Quen việc nhỏ nhoi bếp núc hàng ngày Rõ ràng là ngược lại tư tưởng nữ quyền ngày nay. Nhưng chị muốn kín đáo. Để nói được những điều mênh mông hơn vào lúc khác. Trước cây cỏ vô tư em chẳng giấu/ Nỗi nhớ anh, nỗi nhớ khôn cùng Như thế, nỗi nhớ hình như là cách thể hiện phổ biển nhất của tình yêu ở người phụ nữ. Người đàn bà xưa không mấy khi sống cho mình, mà sống nhiều hơn cho tương lai. Tương lai nào? Đoàn tụ, điền viên. Hay họ buộc phải như thế, hy vọng tìm ra dòng chảy ổn định, thăng bằng. Chị tìm ở đâu? Chớ thương em một mình vất vả/ Em ở đây bạn bè đông đủ cả Thật ra sự thăng bằng đến từ bên trong, tâm hồn của chị có bền vững rồi thì bạn bè mới hội tụ đông đủ được. Vì sự ổn định đến từ bên trong, nên gánh nặng của chị lớn, trĩu xuống. Nào hạnh phúc, nào là đổ vỡ/ Tôi thấy lòng lo sợ không đâu Chị cũng biết nghi ngờ, ghen tuông: Lại hàng cây nghe tiếng thì thầm/ Lời thành thật, dối lừa trên ghế đá Có lúc giận dữ: Dẫu trong em một tình yêu đã mất/ Em không còn đủ sức nghĩ về anh Nhưng có thể không phải thế, mà đó là lúc chị thoát khỏi ảo tưởng, đạt tới cái nhìn trong trẻo, thanh sạch đối với sự thật. Và trong em không thể còn anh/ Nếu ngày mai em không làm thơ nữa Là một trong những câu thơ bí mật nhất của Xuân Quỳnh. Trong những câu như thế, phong cách riêng của chị lộ ra, nửa lãng mạn nửa hiện thực. Ngôn ngữ của chị được sinh ra, trời cho, chứ không phải do rèn luyện. Một người như thế dễ hài lòng với từ vựng và văn phạm của mình; quả nhiên chị làm thơ có vần, và có những bài bảy chữ, tám chữ và lục bát thật hay, nhưng ít khi làm thơ tự do. Thơ tự do thiên về phá vỡ, xô lệch, nghiêng về hậu thiên. Ngôn ngữ của Xuân Quỳnh trước sau vẫn là ngôn ngữ tình yêu, đẹp, và vì tình yêu thường buồn, day dứt, nên nó có màu của mùa thu: Tên mình ai gọi sau vòm lá/ Lối cũ em về nay đã thu Chị không phải là người có lỗi, nhưng thơ chị có vị ăn năn. Xuân Quỳnh không đặt ra những câu hỏi siêu hình, chị không để lộ băn khoăn về vai trò của thơ ca đối với cuộc đời. Như một người tự đối thoại, không cần biết ai lắng nghe, chị nói bằng giọng thành thật, tự đáy lòng. Nói cách khác, chị đi tìm giọng nói của mình không mấy khó khăn. Đối với nhiều nhà thơ, phải mất nhiều năm trời, mới có thể nhận ra chất giọng thực sự của mình trong sáng tạo. Sự dễ dàng ở chị cũng có cái giá của nó: chất giọng quý, tự nhiên, thì khó thay đổi. Trong thơ trữ tình, giọng nói thường là của tác giả. Nhờ thế, nhà thơ có thể dùng một thứ ngôn ngữ tinh khiết nhất của thơ ca. Tuy nhiên ngay cả thế đi nữa, thì chất giọng tinh khiết ấy vẫn chỉ là giọng thơ ca chứ không phải là cá nhân. Mặt khác, giọng thơ ca lại không phải chỉ của một người, nó phức tạp hơn và là kết quả của sự tương tác giữa tâm hồn nhà thơ và nhiều yếu tố như truyền thống, văn hoá, xã hội, điểm nhìn. Nó cũng liên quan đến từ vựng và ngôn ngữ. Và nhất là kinh nghiệm sống. Ngoài ra, giữa kĩ thuật và tay nghề cũng có sự khác biệt. Càng viết về sau tay nghề của nhà thơ càng lên nhưng kĩ thuật mà chị áp dụng cho từng bài không nhiều thay đổi. Thơ tình dĩ nhiên là nói về quan hệ nam nữ, nhưng tôi ít thấy nhà thơ nào xác lập một quan hệ sóng đôi cân đối nhiều như Xuân Quỳnh. Những ngày không gặp nhau/ Biển bạc đầu thương nhớ Khởi đầu hay quá, nhưng ám ảnh về quan hệ sóng đôi khiến chị không thể không phạm vào khuyết điểm thông thường, là lập lại. Có phần dễ dãi: Những ngày không gặp nhau/ Lòng thuyền đau - rạn vỡ Có hai mô thức của thơ tình, một về hạnh phúc, một về khổ đau. Trong mỗi bài thơ của chị có thể thấy được cả hai, thể hiện bằng sự thương thân mình. Nhờ khuynh hướng tự thương thân, chị có thể nhận ra từng chi tiết nhỏ trong đời sống hàng ngày, nhặt chúng lên trong tay, những hoa lá cỏ cây, giọt mưa, bầu trời. Thời gian, sự trôi đi, sự mất mát là ám ảnh thường trực. Trong thơ Xuân Quỳnh, không gian là người đàn ông, thời gian là người đàn bà. Nam giới là các huyền thoại, là xã hội công nghiệp, nữ giới là sự hồi tưởng, là bền vững, là sự kế tục. Bằng hồi tưởng, người nữ tự ý thức về mình. Khả năng này rất mạnh ở Xuân Quỳnh, biểu hiện trong thơ của chị dưới dạng thức trầm tư (meditative). Con người vừa sống vừa suy nghĩ, có khi sống nhiều hơn, có khi suy nghĩ nhiều hơn. Dạng thức trầm tư trong thơ Xuân Quỳnh làm thời gian của chị trôi chậm lại, làm cho người nữ trong thơ trữ tình tiến gần về phía người đàn ông, giúp nhà thơ tham dự vào quá khứ và tương lai, nhưng quá khứ nhiều hơn. Cần chú ý rằng trong khi thơ trữ tình của các nhà thơ hiện thực hướng nhiều vào tương lai thì phong cách trầm tư của Xuân Quỳnh giữ chị lại phía bên này của nữ tính cổ điển. Thời gian trong thơ Xuân Quỳnh chưa phải là thời gian hiện tại và hiện đại, chị chưa tự đánh mất chính mình, vì thế bao giờ chị cũng trở lại được với các biên giới của hiện hữu. Vì thế, khi đọc thơ chị, người đọc cảm nhận một điều gì mong manh, đáng thương mà phúc hậu, nhân từ. Theo tôi, có một vài nhà thơ khác về sau theo được khuynh hướng này, ví dụ như Lâm Thị Mỹ Dạ. Thơ Xuân Quỳnh trộn lẫn nhiều thứ, ở nhiều bài là những trộn lẫn chưa chín chắn, có cảm giác như đang tìm đường, trong khi ở một số bài khác, là sự hòa hợp trên mức cao giữa truyền thống và cách tân thẩm mỹ. Đắng cay gởi lại bao mùa cũ/ Thơ viết đôi dòng theo gió xa Hình tượng thơ ca gồm nhiều loại, nhưng quan trọng hoặc phổ biến hơn cả, hoặc cả hai, là tỷ dụ hay hiển dụ (simile) và ẩn dụ (metaphor), cả hai đều thuộc nhóm so sánh. Trong khi ẩn dụ là sự dịch chuyển của hình tượng thì hiển dụ bao giờ cũng chỉ thẳng tính chất so sánh ấy một cách hiển nhiên. Có lẽ vì lý do ấy mà nhiều người nghĩ rằng phương pháp ẩn dụ cao hơn phương pháp hiển dụ. Thật ra không phải vậy. Đó chỉ là hai phương cách khác nhau với những điểm mạnh và yếu riêng biệt. Xuân Quỳnh sử dụng rất tài tình các ẩn dụ: Chỉ có thuyền mới biết/ Biển mênh mông dường nào Nhưng chị dùng nhiều hơn và thuần thục hơn các so sánh hiển nhiên: Tình ta như dòng sông Ngay trong một bài thơ, chị có thể dùng cả hai phương pháp cho một hình tượng, có khi thành công, có khi không thành công, và trong trường hợp thứ hai này, sự hỗn hợp làm cho khí lực bài thơ yếu đi: Những đêm trăng hiền từ/ Biển như cô gái nhỏ Chữ của chị không mới, khối lượng từ vựng (diction) khá giới hạn. Tôi không chắc lắm chị có chịu ảnh hưởng của ai không, nhưng dấu ấn của thơ tiền chiến và các nhà thơ hàng đầu đương thời không thấy rõ trong thơ chị. Có vài câu học trò: Khi lớn khôn ước mơ càng cháy bỏng/ Vai kề vai nghe rộn tiếng tim yêu/ Trải tâm tư dưới trời trăng sáng/ Cuộc đời ơi, đẹp biết bao nhiêu! Cái ấy cũng bình thường, nhiều nhà thơ mới viết cũng bắt đầu như thế. Có điều lạ, đối với tôi, là chị thường trở đi trở lại với chúng, ngay cả khi đã viết những câu giản dị mà diễm tuyệt, gần như bất tử: Tình ta như dòng sông/ Đã yên ngày thác lũ Giản dị là gì? Đó là sự phức tạp nhân đôi. Rõ ràng đó là giọng thơ của người đã chín, biết nén lại, của một người bị cuộc đời xay đập nhiều lần, học được cách nói năng dịu dàng, điềm đạm, dồn năng lượng vào chữ. Nếu được sống và viết lâu hơn, tiếp xúc nhiều hơn, trong không gian và trong thời gian, với các nền thơ khác, cách tân hơn, bay bổng hơn, thơ chị sẽ còn nhiều khám phá thú vị. Về phương pháp hiện thực, Xuân Quỳnh thể hiện mình có phần khó khăn: Sóng đồng chiêm - ôi cái sóng đồng chiêm/ Ai bảo sóng đồng không đáng sợ Có vẻ như chị phần nào lẫn lộn giữa khuynh hướng hiện thực và phong cách tự sự. Chỉ khi nào chị từ bỏ trường hiện thực cổ điển và bước sang giao tiếp thẩm mỹ hiện đại, thơ chị vượt lên: Lối đi quen bỗng lạ/ Cỏ lật theo chiều mây Những người không sống hay lớn lên như chị trong thời gian 1954-1975, ở miền Bắc, nhất là lúc chiến tranh, nên đọc Xuân Quỳnh. Vì khác với nhiều người, thơ chị viết về cuộc đời thường, có riêng, có chung. Đọc chị, tôi biết đó là cuộc đời hạnh phúc. Mặc dù đối với tôi, có thể nó không hấp dẫn. Thơ Xuân Quỳnh biểu lộ một năng lượng dồi dào như chính tuổi trẻ của chị, đáng kính trọng, lớn lên trong gian khó. Chị yêu cuồng nhiệt; và nếu cần, có thể nói: Nếu phải cách xa anh/ Em chỉ còn bão tố Đẩy xa nữa, có thể chị sẽ chạm vào khuynh hướng hài hước đương đại, hoặc khuynh hướng hài hước pha lẫn bi kịch. Thơ chị nhiều câu cũng có tính chất vui chơi (playful) và, mặc dù không được thể hiện rõ trong các bài thơ trữ tình, có lẽ nhờ vậy mà chị viết được một số bài thơ hay cho thiếu nhi. Có một nỗi xao xuyến, nổi loạn, ngổn ngang trong những dòng tâm sự dịu dàng. Chị kẹt vào giữa hai thế giới: một bên là khuynh hướng nữ tính truyền thống, không những được nuôi dưỡng bởi không gian văn hóa thời kì ấy mà còn được bảo trợ, kì lạ thay, bởi toàn bộ nếp sống xã hội chủ nghĩa mà chị lớn lên trong đó, một bên là khuynh hướng nữ quyền tự do âm ỉ. Chị có thể không may mắn có nhiều điều kiện bay nhảy như những đồng nghiệp khác của chị, nhưng đừng hiểu lầm: chị vẫn sống hạnh phúc. Vì hạnh phúc của chị tiêu biểu cho một lớp người, một thế hệ, theo phong cách của họ. Trước muôn trùng sóng bể/ Em nghĩ về anh, em Truyền thống, nhưng vẫn mới, vì trực tiếp. Ngay cả mới như Minh Đức Hoài Trinh ở miền Nam cũng dùng đến nghệ thuật ám chỉ: Người ấy đi về xứ Chim kia bay về xứ Đại dương trôi về xứ Gió cuốn lá về xứ Bốn câu thơ lạ, mềm mại nhưng ác liệt. Còn phong cách Xuân Quỳnh: thùy mị, thu mình, nghĩ về anh trước, nghĩ đến em sau. Thật ra, theo kinh nghiệm của tôi, sự khiêm tốn ở người nữ chưa hẳn là khiêm tốn: nó cao hơn. Có khi chị chạm được vào kho tàng văn xuôi của thơ: Đêm đầu tiên tôi trở về quê cũ/ Chưa thấy mặt người thân, chưa gặp được xóm làng Dễ mà khó. Đọc một số nhà thơ nữ cùng hoàn cảnh với chị hoặc sau đó một thế hệ, như Lý Phương Liên, Phan Thị Thanh Nhàn, Lâm Thị Mỹ Dạ, Ý Nhi, tôi cũng có ấn tượng về truyền thống nhẫn nại, ít bộc lộ tính cách cá nhân góc cạnh, mạnh mẽ, như: Chúng ta là những người nữ xinh đẹp Xinh đẹp hơn mọi loài hơn trái đất (Nhã Ca) Ngược lại, chị trong trẻo, tha thiết, bồi hồi. Cát vắng, sông đầy, cây ngẩn ngơ, Không gian xao xuyến chuyển sang mùa. Tên mình ai gọi sau vòm lá, Lối cũ em về nay đã thu Có phần nào giống với thơ lãng mạn của Thơ Mới, nhưng các nhà thơ trước đây không thể viết như vậy. Xuân Quỳnh cũng vấp những khuyết điểm thông thường, có thể tránh được. Lời yêu mỏng mảnh như màu khói,/ Ai biết lòng anh có đổi thay? Câu trước đẹp toàn hảo, câu sau thì hơi tầm thường, vô tình có phần giống một câu thơ của Hàn Mặc Tử. Ngoài câu đó ra, bài Hoa Cỏ May gần như tuyệt bích, là một trong những bài hay nhất của chị. Trong thơ, thông tin nén chặt lại so với ngôn ngữ thường ngày, nhưng chính toàn bộ bài thơ, chứ không phải chỉ là thông tin, sẽ làm nên năng lượng của nó. Đó là một thứ năng lượng tràn ra khỏi biên giới của ngôn ngữ thông thường, xét như phương tiện của ý nghĩa. Đó là cảm nhận của tôi khi đọc Hoa Cỏ May. Tôi cũng có ý đi tìm dấu vết ảnh hưởng của thơ Lưu Quang Vũ lên Xuân Quỳnh và ngược lại. Nhưng tôi lại tìm thấy sự đồng điệu. Còn ảnh hưởng của họ lên nhau, nếu có, cũng rất tinh tế. Họ giống nhau ở lối đi vào chi tiết một cách thi vị, ở tình cảm lắng sâu, mô tả lược giản. Lưu Quang Vũ, bài Em Vắng: Tình yêu của anh ở sau cửa kính/ Tình yêu của anh đi với mùa hè/ Còn chị?/ Quá khứ của em ngoài cánh cửa/ Gương mặt anh, gương mặt các con yêu Nhưng họ lại khác nhau, nhờ vậy mà có sự tương ứng, thậm chí hô ứng. Trong cùng một bài thơ nói trên, anh nhớ người đi vắng: Tấm gương soi vào khoảng trống/ Ngọn đèn soi gian phòng vắng/ Tấm áo em trên thành ghế im lìm/ Từ xa, chị trả lời:/ Em có đem gì theo đâu/ Em gửi lại cho anh tất cả Có chứ. Chị mang theo những buồn vui, thanh thản và bí mật của kiếp người. Nào đâu những giấc mơ đẹp, lý tưởng nhất thời, ảo tưởng lâu dài, chúng chẳng còn nghĩa gì. Chỉ tình yêu ở lại. Nhà thơ Auden có một ý nổi tiếng rằng: các nhà thơ chết đi khi sự nghiệp của họ đã hoàn thành. Nhưng chị thì khác, việc hãy còn dang dở. Thời đại ngày nay cũng khác. Thơ Xuân Quỳnh không trả lời được hết mọi câu hỏi, vả lại cũng không một nhà thơ nào làm được thế, nên những người yêu nhau có thể đi tìm câu trả lời ở những nơi khác. Cuốn sách nói về tuổi trẻ chúng tôi Nằm khiêm tốn giữa muôn nghìn cuốn khác Tuy vậy, khi chúng ta trở về, cái bóng của thơ Xuân Quỳnh vẫn còn đổ dài trên trang sách để mở: thơ chị là một phần của, hay là một trong những, tuổi trẻ chúng ta. Starbuck, Broadway, 1.21.2011 N.Đ.T (265/3-11) |
TRƯƠNG ĐĂNG DUNG Tặng Đỗ Lai ThuýChủ nghĩa hiện đại là kết quả của những nỗ lực hiện đại hoá đời sống và tư duy xẩy ra từ những năm cuối của thế kỷ XIX, ở Châu Âu. Những thành tựu nổi bật của khoa học tự nhiên, của triết học, xã hội học và tâm lí học đã tác động đến cách nghĩ của con người hiện đại trước các vấn đề về tồn tại, đạo đức, tâm lí. Tư tưởng của Nietzsche, Husserl, hay Freud không chỉ ảnh hưởng đến tư duy hiện đại mà tiếp tục được nhắc đến nhiều ở thời hậu hiện đại.
ĐẶNG TIẾNTân Hình Thức là một trường phái thi ca hiện đại được phổ biến từ năm bảy năm nay, phát khởi do Tạp Chí Thơ, ấn hành tại Mỹ, chủ yếu từ số 18, xuân 2000 “chuyển đổi thế kỷ”, và được nhiều nhà văn, nhà thơ trong và ngoài nước hưởng ứng. Tên Tân Hình Thức dịch từ tiếng Anh New Formalism, một trường phái thơ Mỹ, thịnh hành những năm1980 - 1990.
NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆP Một ngày kia, cát bụi vùng Hoan Diễn đã sinh tạo một “kẻ ham chơi”. Y cứ lãng đãng trong đời như một khách giang hồ mang trái tim nhạy cảm, một trái tim đầy nhạc với những đốm lửa buồn. Để rồi sau những cuộc say tràn cung mây, khi dòng cảm hứng chợt bùng lên từ những vùng u ẩn nằm sâu trong cõi nhớ, những giai âm ùa về như những luồng điện làm vỡ òa bí mật: có thương có nhớ có khóc có cười- có cái chớp mắt đã ngàn năm trôi. Đây là những câu thơ khép lại một trong những bài thơ hay nhất của Nguyễn Trọng Tạo: Đồng dao cho người lớn(1).
NGUYỄN KHẮC PHÊTừ lâu, ở Huế, nhiều người đã biết tiếng ba công chúa, ba nữ sĩ (Tam Khanh) con vua Minh Mạng, em gái nhà thơ nổi tiếng Tùng Thiện Vương Miên Thẩm, trong đó MAI AM là người được nhắc đến nhiều nhất. Mai Am nổi tiếng trước hết vì tài thơ và cùng vì cuộc đời riêng không được may mắn của bà, tuy bà là người sống thọ nhất trong “Tam Khanh”.
LÊ DỤC TÚCùng với nghệ thuật tiếp cận và phản ánh hiện thực, nghệ thuật miêu tả và khắc họa chân dung nhân vật, nghệ thuật châm biếm và sử dụng ngôn ngữ cũng là một trong những nét nghệ thuật đặc sắc ta thường gặp trong các phóng sự Việt Nam 1932 - 1945.
NGUYỄN VĂN DÂNTrong thế kỷ XX vừa qua, thế giới, đặc biệt là thế giới phương Tây, đã sản sinh ra biết bao phương pháp phục vụ cho nghiên cứu văn học, trong đó phương pháp cấu trúc là một trong những phương pháp được quan tâm nhiều nhất.
AN KHÁNHHai mươi tám năm kể từ ngày chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam, đủ để một thế hệ trưởng thành, một dòng thơ định vị. Tháng 3 vừa qua, Hội Văn nghệ Hà Nội và nhóm nhà thơ - nhà văn - cựu binh Mỹ có cuộc giao lưu thú vị, nhằm tìm ra tiếng nói "tương đồng", sự thân ái giữa các thế hệ Mỹ - Việt thông qua những thông điệp của văn chương.
TRẦN ĐÌNH SỬ Bạn đọc Việt Nam vốn không xa lạ với phê bình phân tâm học hơn nửa thế kỷ nay, bởi nó đã bắt đầu được giới thiệu vào nước ta từ những năm ba mươi, bốn mươi thế kỷ trước. Nhưng đáng tiếc nó đã bị kỳ thị rất nặng nề từ nhiều phía. Giống như nhân loại có thời phản ứng với Darwin vì không chấp nhận lý thuyết xem con người là một loài cao quý lại có thể tiến hóa từ một loài tầm thường như loài khỉ, người ta cũng không thể chấp nhận lý thuyết phân tâm học xem con người - một sinh vật có lý trí cao quý lại có thể bị sai khiến bởi bản năng tầm thường như các loài vật hạ đẳng!
PHẠM ĐÌNH ÂN(Nhân kỷ niệm lần thứ 20 ngày mất của Thế Lữ 3-6-1989 – 3-6-2009)Nói đến Thế Lữ, trước tiên là nói đến một nhà thơ tài danh, người góp phần lớn mở đầu phong trào Thơ Mới (1932-1945), cũng là nhà thơ tiêu biểu nhất của Thơ Mới buổi đầu. Ông còn là cây bút văn xuôi nghệ thuật tài hoa, là nhà báo, dịch giả và nổi bật là nhà hoạt động sân khấu xuất sắc, cụ thể là đưa nghệ thuật biểu diễn kịch nói nước nhà trở thành chuyên nghiệp theo hướng hiện đại hóa.
THÁI DOÃN HIỂUPhàm trần chưa rõ vàng thauChân tâm chẳng biết ở đâu mà tìm. VẠN HẠNH Thiền sư
HỒ THẾ HÀ Thi ca là một loại hình nghệ thuật ngôn từ đặc biệt. Nó là điển hình của cảm xúc và tâm trạng được chứa đựng bởi một hình thức - “hình thức mang tính quan niệm” cũng rất đặc biệt. Sự “quái đản” trong sử dụng ngôn từ; sự chuyển nghĩa, tạo sinh nghĩa trong việc sử dụng các biện pháp tu từ; sự trừu tượng hoá, khái quát hoá các trạng thái tình cảm, hiện thực và khát vọng sống của con người; sự hữu hình hoá hoặc vô hình hoá các cảm xúc, đối tượng; sự âm thanh hoá theo quy luật của khoa phát âm thực nghiệm học (phonétique expérimentale)...đã làm cho thi ca có sức quyến rũ bội phần (multiple) so với các thể loại nghệ thuật ngôn từ khác.
LÊ XUÂN LÍTHỏi: Mã Giám Sinh sau khi mua được Kiều, Mã phải đưa Kiều đi ròng rã một tháng tròn mới đến Lâm Tri, nơi Tú Bà đang chờ đợi. Trên đường, Mã đâm thèm muốn chuyện “nước trước bẻ hoa”. Hắn nghĩ ra đủ mưu mẹo, lí lẽ và hắn đâm liều, Nguyễn Du viết: Đào tiên đã bén tay phàm Thì vin cành quít, cho cam sự đờiĐào tiên ở đây là quả cây đào. Sao câu dưới lại vin cành quít? Nguyễn Du có lẩm cẩm không?
CHU ĐÌNH KIÊN1. Có những tác phẩm người đọc phải thực sự “vật lộn” trên từng trang giấy, mới có thể hiểu được nhà văn muốn nói điều gì. Đó là hiện tượng “Những kẻ thiện tâm” (Les Bienveillantes) của Jonathan Littell. Một “cas” được xem là quá khó đọc. Tác phẩm đã đạt hai giải thưởng danh giá của nước Pháp là: giải Goncourt và giải thưởng của Viện hàn lâm Pháp.
PHONG LÊSinh năm 1893, Ngô Tất Tố rõ ràng là bậc tiền bối của số rất lớn, nếu không nói là tất cả những người làm nên diện mạo hiện đại của văn học Việt Nam thời 1932-1945. Tất cả - gồm những gương mặt tiêu biểu trong phong trào Thơ mới, Tự Lực văn đoàn và trào lưu hiện thực đều ra đời sau ông từ 10 đến 20 năm, thậm chí ngót 30 năm.
HẢI TRUNGHiện tượng ngôn ngữ lai tạp hay gọi nôm na là tiếng bồi, tiếng lơ lớ (Pidgins và Creoles) được ngành ngôn ngữ học đề cập đến với những đặc trưng gắn liền với xã hội. Nguồn gốc ra đời của loại hình ngôn ngữ này có nhiều nét khác biệt so với ngôn ngữ nói chung. Đây không chỉ là một hiện tượng cá thể của một cộng đồng ngôn ngữ nào, mà nó có thể phát sinh gắn liền với những diễn biến, những thay đổi, sự phát triển của lịch sử, xã hội của nhiều dân tộc, nhiều quốc gia khác nhau.
BÙI NGỌC TẤN... Đã bao nhiêu cuộc hội thảo, bao nhiêu cuộc tổng kết, bao nhiêu cuộc thi cùng với bao nhiêu giải thưởng, văn chương của chúng ta, đặc biệt là tiểu thuyết vẫn chẳng tiến lên. Rất nhiều tiền của bỏ ra, rất nhiều trí tuệ công sức đã được đầu tư để rồi không đạt được điều mong muốn. Không có được những sáng tác hay, những tác phẩm chịu được thử thách của thời gian. Sự thất thu này đều đã được tiêu liệu.
NGUYỄN HUỆ CHICao Bá Quát là một tài thơ trác việt ở nửa đầu thế kỷ XIX. Thơ ông có những cách tân nghệ thuật táo bạo, không còn là loại thơ “kỷ sự” của thế kỷ XVIII mà đã chuyển sang một giọng điệu mới, kết hợp tự sự với độc thoại, cho nên lời thơ hàm súc, đa nghĩa, và mạch thơ hướng tới những đề tài có ý nghĩa xã hội sâu rộng.
NGUYỄN TRƯƠNG ĐÀNĐã nhiều sử liệu viết về cuộc xử án vua Duy Tân và các lãnh tụ khởi xướng cuộc khởi nghĩa bất thành tháng 5-1916, mà trong đó hai chí sĩ Thái Phiên - Trần Cao Vân là hai vị đứng đầu. Tất cả các sử liệu đều cho rằng, việc hành hình đối với Thái Phiên, Trần Cao Vân, Tôn Thất Đề, Nguyễn Quang Siêu diễn ra vào sáng ngày 17-5-1916. Ngay cả trong họ tộc hai nhà chí sĩ, việc ghi nhớ để cúng kỵ, hoặc tổ chức kỷ niệm cũng được tính theo ngày như thế.
PHONG LÊBây giờ, sau 60 năm - với bao là biến động, phát triển theo gia tốc lớn của lịch sử trong thế kỷ XX - từ một nước còn bị nô lệ, rên xiết dưới hai tầng xiềng xích Pháp-Nhật đã vùng dậy làm một cuộc Cách mạng tháng Tám vĩ đại, rồi tiến hành hai cuộc kháng chiến trong suốt 30 năm, đi tới thống nhất và phát triển đất nước theo định hướng mới của chủ nghĩa xã hội, và đang triển khai một cuộc hội nhập lớn với nhân loại; - bây giờ, sau bao biến thiên ấy mà nhìn lại Đề cương về văn hoá Việt Nam năm 1943(1), quả không khó khăn, thậm chí là dễ thấy những mặt bất cập của Đề cương... trong nhìn nhận và đánh giá lịch sử dân tộc và văn hoá dân tộc, từ quá khứ đến hiện tại (ở thời điểm 1943); và nhìn rộng ra thế giới, trong cục diện sự phát triển của chủ nghĩa tư bản hiện đại; và gắn với nó, văn hoá, văn chương - học thuật cũng đang chuyển sang giai đoạn Hiện đại và Hậu hiện đại...
TƯƠNG LAITrung thực là phẩm chất hàng đầu của một người dám tự nhận mình là nhà khoa học. Mà thật ra, đâu chỉ nhà khoa học mới cần đến phẩm chất ấy, nhà chính trị, nhà kinh tế, nhà văn hoá... và bất cứ là "nhà" gì đi chăng nữa, trước hết phải là một con người biết tự trọng để không làm những việc khuất tất, không nói dối để cho mình phải hổ thẹn với chính mình. Đấy là trường hợp được vận dụng cho những người chưa bị đứt "dây thần kinh xấu hổ", chứ khi đã đứt mất cái đó rồi, thì sự cắn rứt lương tâm cũng không còn, lấy đâu ra sự tự phản tỉnh để mà còn biết xấu hổ. Mà trò đời, "đã trót thì phải trét", đã nói dối thì rồi cứ phải nói dối quanh, vì "dại rồi còn biết khôn làm sao đây".