Đọc thơ Vũ Lập Nhật

14:56 22/05/2019

VŨ THÀNH SƠN   

Thơ Vũ Lập Nhật cho chúng ta một cảm giác mất thăng bằng, một thế đứng chông chênh nguy hiểm, như thể khi bước vào thế giới thơ của Vũ Lập Nhật là chúng ta đang bước vào một thế giới khác, một thế giới song song không biên giới; ở đó, trật tự, định luật vạn vật hấp dẫn, sự sáng suốt của lý tính như bị thách thức.

Tác giả Vũ Lập Nhật - Ảnh: internet

rằng để đi bộ bình thường
hai chân anh không được cùng lúc nằm trên một đường thẳng
thơ cũng là dao động giữa trái và phải
nhịp này nhịp kia tìm lấy nhau
mất cân bằng mới tiến về phía trước
nên khi anh dừng lại
thơ biến mất

thơ không thể vận hành bằng sự phô diễn
anh phải chờ nó biến mất
để rồi tìm lại đâu đó trong ký ức
về những bước chân anh đã không bước


            (Một tối xem tranh của Van Gogh)

Trong lúc nhiều nhà thơ còn say sưa triết lý, hoặc than mây khóc gió trên một niềm tin vững chắc về tính tất yếu hiển nhiên của đời sống hữu hạn, Vũ Lập Nhật đem đến một thứ Thơ hoàn toàn khác; ở đó, cái chất liệu làm nên Thơ là ngôn ngữ bị đem ra xét hỏi và cũng qua đó, ngôn ngữ mới được trả lại bản chất đích thực ban đầu của nó: đó là tiếng vọng của sự im lặng.

tôi sẽ không thể cất lên bất cứ tiếng nói nào
hoặc chỉ ú ớ vài từ vô nghĩa
người ta sẽ không phán xét tôi như trong mọi cuộc phán xét về cách sử dụng ngôn ngữ
im lặng và tôi
sẽ chết theo cách của tôi


            (Tôi không phải là tôi)

Rất ít những nhà thơ Việt Nam truy vấn về tính khả thể của Thơ để cho ra đời một thứ Thơ về Thơ (metapoetry) như Vũ Lập Nhật. Đó không phải là một môn thể thao nhào lộn trong phòng kính mà là một sự khai quật nguồn ánh sáng kỳ diệu đã bị tước đoạt bởi truyền hình, phim ảnh, báo chí hay facebook; sự khai quật đó có tên gọi là Homer.

như suy tư về tàn tích một thành phố không tồn tại nữa

Đó cũng chính là suy tư của Ulysses sau những tháng năm dài lưu lạc quay đầu nhìn về cố quận Ithaca và của mỗi chúng ta trong cuộc sinh tồn này.

“Hiện hữu hay không hiện hữu”, câu hỏi đó không bao giờ lỗi thời bởi vì nó phủ nhận đời sống con người như là một thứ tất định, phủ nhận quyền uy tối thượng của Tạo Hóa và khẳng định tự do không thể đảo ngược của Con Người.

tôi không phải là tôi
tôi là tóc của tôi
mỗi sáng sớm khi nhớ ra điều gì về thế giới này thì thấy mình xoăn tít trong đám đồng loại
và vài ngày sau thấy mình mắc kẹt trong những
thanh nhựa song song của một chiếc lược có khi
bụi bám đầy
thấy mình trôi
vào
nhiều ống cống cho những cuộc tái sinh
rơi
trên vô số nơi mà tôi chỉ ước gì nó không
tồn tại trên mặt đất này


            (Tôi không phải là tôi)

Câu hỏi đó không những làm cho nhiều người hoảng sợ mà họ còn hoang mang, bất ổn ngay từ ngưỡng cửa của thơ Vũ Lập Nhật khi chính ngôn ngữ, hình ảnh, cảm xúc trong thơ Vũ Lập Nhật đã vượt quá cái khung an toàn của ước lệ và điển phạm.

em hỏi tôi thay vì vậy
sao tôi không viết bài thơ chào mừng lưỡi dao mới
những tờ giấy gập đôi từ nay sẽ tách rời nhau dễ dàng hơn
sao tôi không mơ một cách hợp lý
về em, về lưỡi dao, ngày kỷ niệm lao động, ngày lễ tình nhân
nhưng tôi thấy em trong ngày kỷ niệm lao động
thấy lưỡi dao trong ngày lễ tình nhân
tôi nói những điều riêng tư trong khán phòng đông người
rồi thuyết trình về vấn đề phổ quát trong phòng mình
cũng như ăn trưa cùng các nhân vật trong rạp chiếu phim
hay xem phim trong nhà bếp cùng lũ kiến bò trên thức ăn vụn còn sót lại vào buổi sáng
tôi ngủ trong công viên và chơi trò đu quay trong phòng ngủ


            (Tôi đã viết một bài thơ tình)

Không có nỗi sợ nào, kể cả cái chết, kinh hoàng cho bằng nỗi sợ khi đứng trước cái xa lạ và cái không thể hiểu, bởi vì, nói như Epicure, đối với người đang sống thì cái chết chưa xuất hiện, còn đối với người đã chết thì họ không còn hiện hữu nữa để có thể cảm nhận được cái chết như thế nào. Cái chết, suy cho cùng, chẳng có liên hệ gì đến con người trong khi cái thực sự có giá trị đối với con người chính là cuộc sống ở thời hiện tại thì đang bị hoài phí.

anh không thể thưởng thức trọn vẹn ổ bánh mì
nếu không đọc hết câu chữ được in trên tờ báo làm giấy gói
anh chẳng xé nát bìa sách khi ngốn hết câu chuyện bên trong
vì anh biết vật chứa đôi khi lại đẹp hơn thứ nó chứa đựng
anh lật ngược bìa vào trong và đảo trang cuối sách ra làm bìa
cũng như đôi khi ta cần biết trước kết thúc để quyết định có sống cuộc đời này hay không
những đứa trẻ ra đời vì ai đó đã giấu đi chương tối hậu


            (Nào đâu có gì khác biệt nơi đây)

Với những dòng thơ như thế này, Vũ Lập Nhật đang thực sự chiêu niệm những nỗi buồn lô xô mái ngói, mắt lúng liếng, hay nắng thủy tinh lệ đá xanh… của một thời không xa:

Nếu tôi không ở nhà thì chắc là tôi đang ở dưới trời mưa
Nếu tôi không ở dưới trời mưa thì chắc là tôi đang trên đường đến đó
Nếu tôi không trên đường đến đó, chắc là tôi đã muốn đến một nơi nào khác
Nếu tôi không muốn đến một nơi khác, chắc là tôi vẫn mong đến nơi có mưa
Nếu tôi không mong đến nơi có mưa, chắc là tôi đang muốn hủy diệt đi sự lưu trú của mình... hủy diệt bất cứ địa hạt nào của cuộc sống chứa chấp tôi ảo não

Nếu tôi không muốn hủy diệt đi sự tồn lưu, chắc là tôi đang muốn làm biến mất đi những đường viền xung quanh nó và thử tưởng tượng có một lằn ranh giới trắng bao quanh tôi khi đứng dưới cơn mưa này.

Nếu tôi không muốn làm biến mất đi những giới hạn ấy, chắc là tôi đang muốn làm biến mất đi vỏ bọc của chính tôi và thử tưởng tượng thật ra những đường viền ấy không phải màu trắng vì nó được làm bằng da của tôi, da đang chai sần đi vì những vệt nắng cứa vào các kẽ hở nhỏ của những lỗ thoát khí.

Nếu tôi không muốn làm biến mất đi da thịt của mình như cách một con rắn gỡ bỏ lớp da để tiếp tục thanh xuân hóa đời sống, thì chắc là do tôi đã biết sẽ có ai đó thay tôi làm công việc này

Nếu tôi không biết sẽ có ai đó thay mình róc da thịt, chắc là tôi sẽ đứng dưới mưa và tiếp tục đi tìm mưa để nó xối rửa những tiểu tiết và đại sự trên cơ thể. Sẽ chẳng còn gì cả…


            (Mưa)

Cái làm nên vẻ đẹp của thơ Vũ Lập Nhật chính là ở sự thách thức tính hợp lý của những biểu tượng đã được khuôn đúc và hằn dấu nung đỏ lên trí tưởng tượng của con người.

người lao công nói về điều hợp lí
khi những chiếc đũa tre trong hộp cơm trưa ai đó vứt đi được cắm vào bình hoa
tôi đốt những chiếc đũa ấy và cầu nguyện
tựa như thể đũa là danh từ mở rộng của nhang và bình hoa là danh từ thay thế của lư hương


            (At right place)

Tuy vậy, vẻ đẹp đó cũng vẫn là một vẻ đẹp kết tinh trong suốt của lý tính cho dù Vũ Lập Nhật thường đào xới tính bất hợp lý trong thơ, và chính vì vậy thơ của Vũ Lập Nhật không có cái bay bổng siêu thực. Vũ Lập Nhật một chân còn bám chặt vào mảnh đất của hiện thực trong khi chân kia vẫn còn lưỡng lự trên miệng hố thẳm của vô thức, nên thơ của Vũ Lập Nhật thiếu cái say khướt nổi loạn.

như con kiến nhẫn nại
tôi bò quanh
            thành cốc nước
vừa chờ đợi
            vừa tiến hành cái chết của mình
bằng nghi thức bức tử sự lãng mạn
trong cái nóng khủng khiếp từ những khung cửa sổ bị tra tấn bằng nhiệt độ
mà hơi thở là đồng lõa của nỗi buồn
và khoảng giữa
    chỉ là khái niệm
như con cá tung mình trên mặt biển hoàng hôn
có lẽ nó không thấy đường chân trời nằm giữa đâu cả
và trong tiếng lắc cắc...
            những hòn đá lạnh cuối cùng còn sót lại
tôi quyết định
            nhảy
            xuống
một bài thơ khác


            (Những suy nghĩ trước khi kết thúc một hư cấu)

Đọc thơ Vũ Lập Nhật cho chúng ta niềm vui thú của sự khám phá những cái bất ngờ, bất định giống như một người gặp những ngã rẽ không báo trước trên con đường quen thuộc, nó vừa bất trắc nhưng vừa mời mọc kêu gọi. Những du khách đã quen ngồi sau một tay lái sẽ không có được cái cảm giác của một sự hồi hộp, lưỡng lự hay liều lĩnh đó bởi khi đó, đọc một bài thơ, chẳng khác gì làm một bài trắc nghiệm trí nhớ của học sinh thi tốt nghiệp; họ sẽ bỏ trống ô vuông bên cạnh đối với những cái lạ lẫm chưa từng được dạy dỗ bao giờ. Vũ Lập Nhật đem vào trong thơ một chiều kích khác của ngôn ngữ, đó là một sự triển khai hình ảnh trong trường ngôn ngữ (Jacques Lacan), là sự mơ hồ cấu thành của thông điệp thi ca (R. Jakobson), là thứ ngôn ngữ biểu tượng của Roland Barthes.

Khi sự im lặng của tôi hút hết dưỡng khí để trưởng thành
bầy cá nhỏ vẫn lặng lẽ bơi qua sự im lặng đã từng chứa những bầy cá nhỏ khác
sự im lặng của tôi có những cánh tay dài sọc
như nét gạch ngang trong bức tranh đứa trẻ vẽ tượng trưng cho biển
_ ___ __ ___
____ _ _ ___ __
____ __ ____ _ _ _ _____ __
__ ___
  __ ____ ___ ___ _ _
rồi chúng thành đường thẳng duy nhất
mà bất cứ con cá nào bơi qua cũng biến mất

 
Khi sự im lặng của tôi hấp hối
chúng mới hiểu rằng
từ lâu mình đã bị gọi sai tên.


            (Bầy cá nhỏ bơi qua sự im lặng)

Và chúng ta hy vọng, như Vũ Lập Nhật hy vọng, rằng:

thơ không thể vận hành bằng sự phô diễn
anh phải chờ nó biến mất
để rồi tìm lại đâu đó trong ký ức
về những bước chân anh đã không bước


            (Một tối xem tranh Van Gogh)

Những bài thơ mà Vũ Lập Nhật không viết hoa.  

V.T.S  
(SHSDB32/03-2019)




 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • Hoàng Phủ Ngọc Tường. Sinh ngày 9 tháng 9 năm 1937. Quê ở Triệu Long, Triệu Hải, Quảng Trị. Năm 1960, tốt nghiệp khóa I, ban Việt Hán, Trường đại học Sư phạm Sài Gòn. Năm 1964, nhận bằng cử nhân triết Đại học Văn khoa Huế. Năm 1960 - 1966, dạy trường Quốc Học Huế. Từng tham gia phong trào học sinh, sinh viên và giáo chức chống Mỹ - ngụy đòi độc lập thống nhất Tổ quốc. Năm 1966 - 1975, nhà văn thoát li lên chiến khu, hoạt động ở chiến trường Trị Thiên. Sau khi nước nhà thống nhất, từng là Chủ tịch Hội Văn nghệ Quảng Trị, Tổng biên tập Tạp chí Cửa Việt.

  • ANH DŨNGLTS:  Kết hợp tin học với Hán Nôm là việc làm khó, càng khó hơn đối với Phan Anh Dũng - một người bị khuyết tật khiếm thính do tai nạn từ thuở còn bé thơ. Bằng nghị lực và trí tuệ, anh đã theo học, tốt nghiệp cử nhân vật lý lý thuyết trường Đại học Khoa học Huế và thành công trong việc nghiên cứu xây dựng hoàn chỉnh bộ Phần mềm Hán Nôm độc lập, được giải thưởng trong cuộc thi trí tuệ Việt Nam năm 2001.Sông Hương xin giới thiệu anh với tư cách là một công tác viên mới.

  • SƠN TÙNGLTS: Trong quá trình sưu tầm, tuyển chọn bài cho tập thơ Dạ thưa Xứ Huế - một công trình thơ Huế thế kỷ XX, chúng tôi nhận thấy rằng, hầu hết các nhà thơ lớn đương thời khắp cả nước đều tới Huế và đều có cảm tác thơ. Điều này, khiến chúng tôi liên tưởng đến Bác Hồ. Bác không những là Anh hùng giải phóng dân tộc, là danh nhân văn hoá thế giới mà còn là một nhà thơ lớn. Các nhà thơ lớn thường bộc lộ năng khiếu của mình rất sớm, thậm chí từ khi còn thơ ấu. Vậy, từ thời niên thiếu (Thời niên thiếu của Bác Hồ phần lớn là ở Huế) Bác Hồ có làm thơ không?Những thắc mắc của chúng tôi được nhà văn Sơn Tùng - Một chuyên gia về Bác Hồ - khẳng định là có và ông đã kể lại việc đó bằng “ngôn ngữ sự kiện” với những nhân chứng, vật chứng lịch sử đầy sức thuyết phục.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊAnh Hoài Nguyên, người bạn chiến đấu của nhà văn Thái Vũ (tức Bùi Quang Đoài) từ thời kháng chiến chống Pháp, vui vẻ gọi điện thoại cho tôi: “Thái Vũ vừa in xong TUYỂN TẬP đó!...” Nhà văn Thái Vũ từng được bạn đọc biết đến với những bộ tiểu thuyết lịch sử đồ sộ như “Cờ nghĩa Ba Đình” (2 tập - 1100 trang), bộ ba “Biến động - Giặc Chày Vôi”, “Thất thủ kinh đô Huế 1885”, “Những ngày Cần Vương” (1200 trang), “Thành Thái, người điên đầu thế kỷ” (350 trang), “Trần Hưng Đạo - Thế trận những dòng sông” (300 trang), “Tình sử Mỵ Châu” (300 trang)... Toàn những sách dày cộp, không biết ông làm “tuyển tập” bằng cách nào?

  • MINH QUANG                Trời tròn lưng bánh tét                Đất vuông lòng bánh chưng                Dân nghèo thương ngày Tết                Gói đất trời rưng rưng...

  • NGUYỄN THỊ THÁITôi không đi trong mưa gió để mưu sinh, để mà kể chuyện. Ngày ngày tôi ngồi bên chiếc máy may, may bao chiếc áo cho người. Tôi chưa hề may, mà cũng không biết cách may một chiếc Yêng như thế nào.

  • Nhà thơ Hải Bằng tên thật là Vĩnh Tôn, sinh ngày 3 tháng 2 năm 1930, quê ở thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế. Ông mất ngày 7 tháng 7 năm 1998.

  • NGUYỄN VĂN HOACuốn sách: "Nhớ Phùng Quán" của Nhà xuất bản Trẻ, do Ngô Minh sưu tầm, tuyển chọn và biên soạn với nhiều tác giả phát hành vào quý IV năm 2003. Cuốn sách có 526 trang khổ 13x19cm. Bìa cứng, in 1000 cuốn. Rất nhiều ảnh đẹp của Nguyễn Đình Toán - nhà nhiếp ảnh chân dung nổi tiếng của Việt nam. Đơn vị liên doanh là Công ty Văn hoá Phương Nam.

  • ĐÀ LINHĐể có trận quyết chiến chiến lược Điện Biên Phủ, trước đó quân đội Nhân dân Việt Nam đã có những trận đánh để đời mở ra những khả năng to lớn về thế và lực cho chúng ta. Trong đó Trận chiến trên đường (thuộc địa) số 4 - biên giới Cao Bắc Lạng 1950 là một trận chiến như vậy.

  • HOÀNG VĂN HÂNLướt qua 30 bài thơ của Ngô Đức Tiến trong “Giọng Nghệ”, hãy dừng lại ở những bài đề tài tình bạn. Với đặc điểm nhất quán, bạn của anh luôn gắn liền với những hoài niệm, với những địa chỉ cụ thể, về một khoảng thời gian xác định. Người bạn ấy hiện lên khi anh “nghĩ về trường” “Thăm trường cũ”, hoặc là lúc nhớ quá phải “Gửi bạn Trường Dùng” “ Nhớ bạn Thanh Hoá”. Bạn của anh gắn với tên sông, tên núi: sông Bùng, sông Rộ, Lạt, Truông Dong, Đồng Tháp.

  • FAN ANHTrên thế gian này tồn tại biết bao nhiêu báu vật, hoặc những huyền thoại về báu vật, thì cũng gần như hiện hữu bấy nhiêu nỗi đau và bi kịch của con người vốn dành cả cuộc đời để kiếm tìm, bảo vệ, chiếm đoạt hay đơn giản hơn, đặt niềm tin vào những báu vật ấy. Nhẫn thạch (Syngué sabour - Pierre de patience) của Atiq Rahimi trước tiên là một báu vật trong đời sống văn học đương đại thế giới, với giải thưởng Goncourt năm 2008, sau đó là một câu chuyện về một huyền thoại báu vật của những người theo thánh Allad.

  • KIM QUYÊNSinh năm 1953 tại Thừa Thiên (Huế), tốt nghiệp Đại học Sư phạm Huế năm 1976, sau đó về dạy học ở Khánh Hoà (Nha Trang) hơn 10 năm. Từ năm 1988 đến nay, nhà thơ xứ Huế này lại lưu lạc ở thành phố Hồ Chí Minh, tiếp tục làm thơ và viết báo. Chị là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, hiện nay là biên tập viên Tạp chí Văn hoá Nghệ thuật của Sở Thông tin Văn hoá thành phố Hồ Chí Minh.

  • VÕ QUANG YẾN Tôi yêu tiếng nước tôi                Từ khi mới ra đời làm người                                                Phạm Duy

  • PHẠM NGUYÊN TƯỜNGKhao khát, đinh ninh một vẻ đẹp trường tồn giữa "cuộc sống có nhiều hư ảo", Vú Đá, phải chăng đó chính là điều mà kẻ lãng du trắng tóc Nhất Lâm muốn gửi gắm qua tập thơ mới nhất của mình? Bài thơ nhỏ, nằm nép ở bìa sau, tưởng chỉ đùa chơi nhưng thực sự mang một thông điệp sâu xa: bất kỳ một khoảnh khắc tuyệt cảm nào của đời sống cũng có thể tan biến nếu mỗi người trong chúng ta không kịp nắm bắt và gìn giữ, để rồi "mai sau mang tiếng dại khờ", không biết sống. Cũng chính từ nhận thức đó, Nhất Lâm luôn là một người đi nhiều, viết nhiều và cảm nghiệm liên tục qua từng vùng đất, từng trang viết. Câu chữ của ông, vì thế, bao giờ cũng là những chuyển động nhiệt thành nhất của đời sống và của chính bản thân ông.

  • MINH ĐỨC TRIỀU TÂM ẢNHTôi nghe rằng,Rạch ròi, đa biện, phân minh, khúc chiết... là ngôn ngữ khôn ngoan của lý trí nhị nguyên.Chan hoà, đa tình, niềm nỗi... là ngôn ngữ ướt át của trái tim mẫn cảm.Cô liêu, thuỷ mặc, bàng bạc mù sương, lấp ló trăng sao... là ngôn ngữ của non xanh tiểu ẩn.Quán trọ, chân cầu, khách trạm, phong trần lịch trải... là ngôn ngữ của lãng tử giang hồ.Điềm đạm, nhân văn, trung chính... là ngôn ngữ của đạo gia, hiền sĩ.

  • MAI VĂN HOANTập I hồi ký “Âm vang thời chưa xa” của nhà thơ Xuân Hoàng ra mắt bạn đọc vào năm 1995. Đã bao năm trôi qua “Âm vang thời chưa xa” vẫn còn âm vang trong tâm hồn tôi. Với tôi, anh Xuân Hoàng là người bạn vong niên. Tôi là một trong những người được anh trao đổi, trò chuyện, đọc cho nghe những chương anh tâm đắc khi anh đang viết tập hồi ký để đời này.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ giới thiệuNhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà phê bình Hoài Thanh (1909-2009)Chúng ta từng biết cố đô “Huế Đẹp và Thơ” một thời là nơi hội tụ các văn nhân, trong đó có những tên tuổi kiệt xuất của làng “Thơ Mới” Việt Nam như Xuân Diệu, Huy Cận, Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên…; nhưng nhà phê bình Hoài Thanh lại đến với Huế trong một hoàn cảnh đặc biệt và có thể nói là rất tình cờ.

  • LÊ TRỌNG SÂM giới thiệuBà sinh ra và lớn lên ở Painpol và Saint-Malo, một đô thị cổ vùng Bretagne, miền đông bắc nước Pháp. Học trung cấp và tốt nghiệp cử nhân văn chương ở thành phố Nice, vùng xanh da trời miền nam nước Pháp. Là hội viên Hội nhà văn Pháp từ năm 1982, nay bà đã trở thành một trong số ít nhà văn Châu Âu đã tiếp thu và thâm nhập sâu sắc vào rất nhiều khía cạnh của văn hoá Việt Nam.

  • MAI VĂN HOAN giới thiệu Vĩnh Nguyên tên thật là Nguyễn Quang Vinh. Anh sinh năm 1942 (tuổi Nhâm Ngọ) ở Vĩnh Tuy, huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình. Bố anh từng tu nghiệp ở Huế, ông vừa làm thầy trụ trì ở chùa vừa bốc thuốc chữa bệnh cho người nghèo. Thuở thiếu thời anh đã ảnh hưởng cái tính ngay thẳng và trung thực của ông cụ. Anh lại cầm tinh con ngựa nên suốt đời rong ruổi và “thẳng như ruột ngựa”.

  • LGT: Vài năm lại đây, sau độ lùi thời gian hơn 30 năm, giới nghiên cứu văn học cả nước đang xem xét, nhận thức, và đánh giá lại nền “Văn học miền Nam” (1954 - 1975) dưới chế độ cũ, như một bộ phận khăng khít của văn học Việt Nam nửa sau thế kỷ XX với các mặt hạn chế và thành tựu của nó về nghệ thuật và tính nhân bản. Văn học của một giai đoạn, một thời kỳ nếu có giá trị thẩm mỹ nhân văn nhất định sẽ tồn tại lâu hơn bối cảnh xã hội và thời đại mà nó phản ánh, gắn bó, sản sinh. Trên tinh thần đó, chúng tôi trân trọng giới thiệu bài viết vừa có tính chất hồi ức, vừa có tính chất nghiên cứu, một dạng của thể loại bút ký, hoặc tản văn về văn học của tác giả Nguyễn Đức Tùng, được gửi về từ Canada. Bài viết  dưới đây đậm chất chủ quan trong cảm nghiệm văn chương; nó phô bày cảm nghĩ, trải nghiệm, hồi ức của người viết, nhưng chính những điều đó làm nên sự thu hút của các trang viết và cả một quá khứ văn học như sống động dưới sự thể hiện của chính người trong cuộc. Những nhận định, liên hệ, so sánh, đánh giá trong bài viết này phản ánh lăng kính rất riêng của tác giả, dưới một góc nhìn tinh tế, cởi mở, mang tính đối thoại của anh. Đăng tải bài viết này chúng tôi mong muốn góp phần đa dạng hóa, đa chiều hóa các cách tiếp cận về văn học miền Nam. Rất mong nhận được các ý kiến phản hồi của bạn đọc. TCSH