Đọc thơ Trần Chấn Uy

15:04 02/03/2009
NGÔ XUÂN HỘITính tình phóng khoáng, Trần Chấn Uy chắc không mặn mà lắm với những cuộc chơi mà luật chơi được giới hạn bởi những quy định nghiêm ngặt! Ý nghĩ trên của tôi chợt thay đổi khi mở tập thơ Chân trời khát của anh, ngẫu nhiên bắt gặp câu lục bát: “Dòng sông buồn bã trôi xuôi/ Đàn trâu xưa đã về trời ăn mây”...

Đây là những câu thơ mà có lẽ không ít người làm thơ ước mong viết được. Từ định kiến bị phá vỡ, tôi đọc thơ anh một cách kỹ lưỡng hơn. Hoá ra không phải như tôi quan niệm, Trần Chấn Uy viết lục bát khá chắc tay, bài nào cũng được anh làm một cách cẩn trọng, không bị vần điệu lôi kéo và đều đứng được:
            Em giờ đã vợ người ta
            Đã sang bến khác, đã xa xôi lòng
            Chân trời bỗng dựng cơn giông
            Nghe hiu hiu lạnh từ trong tim mình
Không những thế, ngoài lục bát trong tập này và nhiều tập thơ khác như Xin đừng quên tôi, Nẻo về, Trăng lạnh xứ người... anh còn dành khá nhiều tâm huyết cho thơ tứ tuyệt, một thể loại thơ trói voi bỏ rọ, khó làm, đòi hỏi sự hàm súc ghê gớm:
            Em mang đến tặng tôi một bông hoa dại
            Rồi quay đi hững hờ
            Để suốt đời tôi tìm kiếm đợi chờ
            Bông hoa ấy đến giờ vẫn dại

Hoa dại hay người dại đây? Đúng hơn thì khi đã yêu, những người yêu nhau bao giờ cũng “dại”. Tôi đọc và mừng cho anh, khả năng yêu nghĩ cho cùng là khả năng phát hiện cái mới trong những cái bình thường quanh mình, khả năng rung động trước cái mới cái đẹp, trước những chân trời tinh khôi rực rỡ... Đã qua cái tuổi Tứ thập nhi bất hoặc rồi mà vẫn giữ được cho mình nguyên vẹn mối rung cảm trước cái đẹp, hẳn anh còn làm được thơ dài dài.
Nhưng thể loại thơ Trần Chấn Uy tâm đắc hơn cả chính là thể loại thơ thất ngôn, bát ngôn...Viết các thể thơ này, Trần Chấn Uy có những câu thơ gợi cảm, tạo ấn tượng: “Xanh ngút mắt đám cỏ gà tung cựa”... những câu thơ đẹp một cách giản dị: “Đường lên xứ Lạng mùa thưa rét/ Hoa mận trắng rừng như tuyết bay”... những phát hiện thú vị: “Nhìn phía nào cũng gặp tranh thuỷ mạc”... (Nhật ký Đà Lạt).

Sống bằng nghề làm báo, tác giả có điều kiện đi đây đó nhiều nơi trong và ngoài nước, anh lại có một tâm tính hướng ngoại cởi mở, có lẽ vì thế mà đề tài trong thơ Trần Chấn Uy khá rộng. Dầu thơ hay không phụ thuộc đề tài, nhưng trong những phạm vi nhất định đề tài thể hiện tính nhạy cảm, vốn sống, sự từng trải của người viết đối với đời sống xã hội. Lần theo từng mảng đề tài, chúng ta thấy Trần Chấn Uy hầu như không bỏ sót một cảnh đời nào cần nhớ quanh mình. Những cần ăngten trong bộ cảm ứng tâm hồn anh luôn gương lên thâu nhận tất cả, từ một thoáng hơi may lành lạnh của mùa thu, màu vàng trong những bức tranh Lêvitan, tiếng ếch trên cánh đồng ngập nước, đến những mốt áo quần thời thượng của các cô gái ngày nay... Nhưng ám ảnh anh nhiều hơn cả vẫn là những hình ảnh, những ý nghĩ về quê hương, gia đình, tình yêu, tình cha con, chồng vợ. Đọc đầu đề các bài thơ đã thấy điều đó: Làng xưa, Làng tôi, Để có một tên làng, Đêm quê, Ký ức đồng quê, Trở về bến sông quê, Bình minh của mẹ, Xa vợ, Đặt tên con, Với các con, Chị, Anh tôi, Người lính trở về... Đến nay, những câu thơ hay, những bài thơ thành công của anh hầu hết đều thuộc mảng đề tài quen thuộc này. Những năm sau này khi đã có nhiều thời gian trải nghiệm, cảm xúc thơ của anh vươn tới những vùng đất xa xôi trong và ngoài nước mà không bị lệ thuộc vào chúng một cách chung chung, hoặc sa vào kể lể, được bạn đọc gần xa chấp nhận (Xứ Lạng, Cao Bằng, Cổ tích của riêng ta).

Anh còn viết nhiều về tình yêu và có những lúc khá cao giọng: “Nơi ấy một thời ta đã lên ngôi/ Vị hoàng đế có một thần dân duy nhất”... Hoặc: “Hiện hình đi ta sống đến tàn khuya/ Anh sẽ yêu em bằng tình yêu của 5 tỷ người trên trái đất cộng lại”... Lối nói đại ngôn này ta hay gặp ở những người mang tâm thế được yêu, khi được yêu người ta thường cảm thấy mình mạnh mẽ. Tuy nhiên, bản chất của tình yêu không bao giờ là sự tìm kiếm gặp gỡ giữa hai tâm hồn nam nữ, bản chất ấy đồng điệu với những gì thiết tha diệu vợi, vì thế tôi vẫn thích anh hơn những khi anh đắm đuối:
            Thế rồi xa, em chẳng biết về đâu
            Bỏ lại cuối trời vầng trăng chưa kịp chín
            Tôi từ ấy như con thuyền không bến
            Chở đầy khoang những mảnh vỡ trăng vàng.

Sự thành công trong tình yêu khi không đồng hành với sự thành công trong cuộc đời, đọc Trần Chấn Uy người ta cảm thấy anh bại nhiều hơn thành, buồn nhiều hơn vui. Giọng điệu bất đắc chí không bằng lòng với mình, không bằng lòng với đời có lúc trỗi lên thành giai điệu chủ đạo của cả một tập thơ, âu cũng là một đặc điểm lớn cần được lưu tâm khi nghiên cứu về nhà thơ này.

Ngược với sự đa dạng về đề tài là sự bình ổn về hình thức. Như ở đầu bài tôi đã đề cập, chịu nhiều ảnh hưởng của những thể thơ truyền thống, Trần Chấn Uy ít có những trăn trở tìm tòi cách thể hiện mới mẻ. Đọc anh có cảm giác khi viết, từ những hình thức thơ sẵn có, cảm xúc của anh gọi câu chữ tìm đến lắp vào làm nên bài thơ. Về sự gắn bó giữa nội dung và hình thức chúng ta đã nói nhiều, chính sự quan hệ tương hỗ này đã có công làm nên phong trào Thơ mới trong thơ Việt thế kỷ trước. Có lẽ vì ít quan tâm đến hình thức thể hiện nên có những lúc thơ Uy cũ như Thơ Mới: “Ta về nhặt nắng may vuông áo/Gửi chút tình xưa tới người xưa”...
 TP Hồ Chí Minh, tháng 8 mùa thu 2004
N.X.H
(nguồn: TCSH số 195 - 05 - 2005)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • DƯƠNG PHƯỚC THU

    Chiều ngày 12/5/2014, tôi nhận được món quà vô cùng quý giá, đó là cuốn sách Hải Triều Toàn Tập do chính gia đình của Nhà văn hóa, Nhà báo Hải Triều gửi tặng.

  • Nhà văn Trang Thế Hy đã bước vào tuổi 90. Một đời viết kéo dài suốt 70 năm, ông không viết nhiều nhưng hễ công bố tác phẩm là làng văn phải “giật mình”

  • Xin nói ngay rằng, đọc tập truyện Giọt nước mắt màu đất của Đức Ban (NXB Hội Nhà văn 2014), với tôi Chốn xưa là một truyện ngắn hay.

  • PHẠM XUÂN DŨNG

    Trong số các nhà thơ, nhà văn quê hương Quảng Trị, Vĩnh Mai không phải là một tên tuổi lớn như Chế Lan Viên hoặc Hoàng Phủ Ngọc Tường, nhưng ông vẫn là một tác giả đáng ghi nhận, một nhân cách đáng kính, một người trí thức đầy lòng tự trọng, một người yêu nước chân chính.

  • THẢO LINH 

    Đà Lạt thành phố của ngàn hoa với những con đường trập trùng quanh phố núi với ảo diệu sương mù. Đà Lạt với cảnh sắc hữu tình và thơ mộng đã đi vào thi ca, nhạc họa từ bao đời nay và còn tiếp tục làm say lòng bao người đến kẻ đi.

  • TRẦN TRIỀU LINH

    (Đọc Đi ngược đám đông - Thơ Đông Hà, Nxb. Thuận Hóa, 2014)

  • UYÊN PHƯƠNG 

    Bạn đang sống ở Thủ đô Hà Nội ngàn năm cổ kính hay giữa Sài Gòn hoa lệ vàng rực ánh nắng hoặc giả có thể ở bất cứ thành phố náo nhiệt nào trên đất nước Việt Nam? Bạn đang hòa mình vào nhịp sống đô thị với đầy ắp sự văn minh, hiện đại nhưng cũng khá ồn ào và bụi bặm, thậm chí có lúc bạn cảm thấy chán nản muốn rời xa sự xô bồ và ngột ngạt của chúng?... Vào lúc ấy, chắc hẳn bạn sẽ rất vui nếu được đi đâu đó vài ngày… Cảm giác khi tạm rời xa nơi thành phố cũng rất tuyệt”.

  • LÊ VIỄN PHƯƠNG

    Thơ Tân hình thức Việt - Tiếp nhận và sáng tạo” là công trình Tạp chí Sông Hương phối hợp với Nhà xuất bản Thuận Hóa ấn hành vào tháng 6 năm 2014.

  • Nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên - gọi thân mật là Nguyên “đầu bạc” (vì mái đầu bạc trắng từ lúc còn trẻ) - một người xứ Nghệ “thuần chủng” cha ở Nghệ An, mẹ ở Hà Tĩnh, nhưng đang là Chủ tịch Hội Nhà văn Hà Nội.

  • HỒ ĐĂNG THANH NGỌC

    Có thể nói cuốn “An lạc mùa chay - Món chay dâng Mẹ” của nhà thơ, chuyên gia ẩm thực Hồ Đắc Thiếu Anh (Nxb. Phụ Nữ, 2014) vừa được Nhà sách Phương Nam ấn hành trong tháng tám vừa qua, là cuốn sách thực hành về sự an lạc.

  • Tiếp sau Huỳnh Thúc Kháng, Phan Châu Trinh..., đến lượt Phan Khôi được mở hội thảo khoa học tại quê hương Quảng Nam hôm qua 6.10, đúng 127 năm ngày sinh của ông, để vinh danh một con người đa tài.

  • (Phỏng vấn đối thoại với các nhà văn Nguyễn Đình Thi, Nguyên Ngọc và nhà thơ Trần Dần)

  • Hữu Loan [1916-2010 là khuôn mặt văn học đặc biệt trong nền thi ca Việt Nam đương đại từ non 70 năm nay. Ông làm thơ hay, hiện đại, tân kỳ, nhưng tên tuổi thường xuất hiện theo thời sự.

  • Tiểu thuyết "Công chúa nhỏ" của Frances Hodson Burnett kể câu chuyện về cô tiểu thư thất thế, nhưng vẫn mang trong mình cốt cách lớn.

  • (Vài cảm nhận khi đọc “BÀN TAY NHỎ DƯỚI MƯA” tiểu thuyết của nhà văn TRƯƠNG VĂN DÂN
    (cty vh Phuong Nam-Nxb Hội Nhà văn, 2011)

  • “Lịch sử không bao giờ lầm lẫn, nhà văn Lan Khai là người có công với nước”. Câu nói đó của Thiếu tướng Hoàng Mai đã khẳng định những cống hiến của Lan Khai đối với cách mạng và nền văn học nước nhà. Từ thành tựu sáng tác cho đến nhận định của các nhà văn, nhà báo tiền bối (Trần Huy Liệu, Hải Triều, Vũ Ngọc Phan...) về Lan Khai, chúng ta càng thấy tự hào về một con người, một nhà văn đáng kính đã làm trọn thiên chức của mình đối với dân tộc...

  • “Những năm chiến tranh, miền Trung là túi bom túi đạn, và nguồn lực đất nước cũng dồn về đây. Nhiều nhà văn nhà thơ, nhiều tác phẩm VHNT nổi tiếng cũng xuất hiện từ vùng đất này. Còn hiện nay, dù đội ngũ tác giả ở miền Trung có thưa hơn, nhưng những con người miền Trung dù đi đâu cũng vẫn mang theo truyền thống sáng tạo độc đáo, giàu khí chất của miền đất này. Đó là một cuộc mở mang và bồi đắp tâm hồn trên dọc dài đất nước…”

  • Khi cầm bộ sách này trong tay thì hình ảnh nhà nho yêu nước Phạm Phú Thứ không còn bị khuất lấp trong lớp sương mù thời gian mà hiện ra rờ rỡ, rõ ràng trước mắt chúng ta với một tâm thế mới.

  • “Có lần tôi hỏi anh Học: Tư tưởng cách mệnh của mày nảy ra từ hồi nào? ​Anh đáp: Từ năm độ lên mười tuổi! Hồi ấy tao còn học chữ Nho ở nhà quê...”.