Đọc thơ Lâm Thị Mỹ Dạ

15:47 05/09/2008
VŨ QUẦN PHƯƠNGTên thật cũng là bút danh, sinh ngày 18-9-1949 tại quê gốc huyện Lệ Thuỷ, Quảng Bình.

Trong kháng chiến chống Mỹ 1965-1975, Lâm Thị Mỹ Dạ làm việc ở Hội Văn nghệ Quảng Bình và bắt đầu làm thơ. Quảng Bình khi ấy là vùng chiến sự ác liệt nhất miền Bắc. Chặng thơ đầu tiên của Lâm Thị Mỹ Dạ lấy cuộc sống đánh giặc gian lao đó làm nội dung. Đó cũng là đặc tính chung của cả nền thơ. Nét riêng của cây bút trẻ Mỹ Dạ khi ấy là không đuổi theo sự kiện chiến tranh, thơ không ôm đồm chi tiết hay sự tích chiến đấu. Hiện thực phải rọi qua lăng kính tâm hồn và thủ pháp nghệ thuật mới thành thơ trên trang giấy. Ca ngợi cô gái lấy thân mình đánh lạc hướng bom giặc để cứu đường, bà không viết trực tiếp sự kiện anh hùng ấy. Bài thơ Khoảng trời hố bom không có tiếng bom đạn đã là sự lắng lại của cảm xúc và nhận thức. Cô gái đã thành những làn mây trắng và vầng mặt trời sáng chói in trên mặt nước cái hố bom đã giết cô. Lâm Thị Mỹ Dạ ca ngợi ý chí hy sinh chiến đấu của người kháng chiến lại bằng chính nỗi nhớ cảnh thanh bình của họ. Tính thiện thắng cái ác bằng chính sự tồn tại của nó:
            Đêm qua bom nổ trước thềm
            Sớm ra trời vẫn ngọt mềm tiếng chim
            Nghe hương cây vội đi tìm
            Hái chùm ổi chín lặng im cuối vườn.
Nhiều nét đẹp vĩnh cửu của thiên nhiên và tâm hồn con người hiện diện trong thơ chiến tranh của Mỹ Dạ: tình mẹ con, lòng tin vào bản thân, sự hồn nhiên của tạo vật... Ngay từ những bài thơ đầu tay ấy đã có thể thấy tính hướng nội của thơ Lâm Thị Mỹ Dạ. Thơ mang những nét của bản sắc tâm hồn người viết, rõ nhất là tính phụ nữ, nét dịu dàng của cảm xúc, cách khai thác, cách lọc tìm chất thơ trong đời sống. Cùng với năm tháng, thơ Mỹ Dạ càng tìm sâu vào chính tâm hồn bà, tạo nên một phẩm chất trữ tình khá thuần khiết. Đến tập thơ Đề tặng một giấc mơ (xuất bản 1998) Lâm Thị Mỹ Dạ đã như chú ngựa nhớ mặt trời thì ngửi trong đất đai tìm hơi ấm vương còn. Bà "đánh hơi" trong mọi ngóc ngách tâm hồn mình để nhận ra đời. Đời của một con người in đỏ dấu ấn của thời người ấy sống. Những cảm xúc của Lâm Thị Mỹ Dạ là cảm xúc chung có tính quy luật của loài người nhưng nó trở thành mới lạ thuyết phục ta bởi tính cá thể cụ thể.
Lâm Thị Mỹ Dạ có một tuổi thơ vất vả. Dấu vết còn in trong giọng thơ. Giọng thơ luôn phảng phất buồn. Giờ đây vào tuổi lớn ngoảnh lại/giật mình/hoang vắng/Bởi tôi đã gieo tôi cặn kiệt không ngờ. Thảng thốt nhìn năm tháng qua mau, luyến tiếc thời thanh niên sôi nổi được thể hiện như một nhận thức, một giác ngộ về đời người, tưởng thế mà không phải thế:
            Tưởng tương lai vẫn còn dài rộng lắm
            Nào đâu hay đã gần hết chuyến đò
            (...) Tưởng là vậy, tưởng là mình gan góc
            Nào đâu ngờ nước mắt cạn đêm nay.
Nước mắt nhưng không phải sự than khóc van xin mà là sự hiểu mình, nhận ra cái sinh linh mỏng mảnh dễ vỡ của chính mình, nhận ra cái ngắn dài của đời người Mới ban mai đã chiều nhạt nắng. Sóng vỗ vào/ Sóng lùi ra/ Từng đợt/ Hỏi trời xa/ Ai lấy hết tuổi mình. Nỗi đau nhất của người, theo Mỹ Dạ, là sự cô đơn. Bà cảm nhận nỗi đau ấy bằng hoa lá (Một quỳnh ta) khi trốn vào trò chơi con trẻ (Ném thia lia) khi hiện diện trong cõi một mình. Cô đơn mang tính triết học, cô đơn trong tình yêu. Tâm trạng cô đơn thường bắt nguồn từ lòng yêu đời sâu sắc. Thơ cũng dùng nó để diễn tả một cách xót xa lòng yêu đời. Người phụ nữ trong thơ Mỹ Dạ có lúc muốn lấy trái tim mình làm nghĩa trang chôn những kỷ niệm, muốn trên y phục mình chỉ là một màu đen khâm liệm, nhưng chỉ một cơn gió xuân choàng qua vai, nàng đã không im lặng được.
            Người đàn bà nói một câu rất nhỏ
            Chỉ để mình nghe
            Chỉ để gió nghe
Nhưng bạn đọc chúng ta nghe được. Biểu tượng thơ hơi điệu đà (nói chung thơ Mỹ Dạ hơi điệu) nhưng cũng đủ cho ta thấy nỗi khát khao và niềm hy vọng vào cuộc đời của bà. Mỹ Dạ nói Tạ từ làm ta xót thương, nói ao ước làm ta chói lòng. Ao ước làm con thuyền còn ra khơi được (Trước Nha Trang). Bà cảm nghe thân phận như cái vỏ ốc Trống rỗng hết bao điều quên nhớ, như giọt sương Rơi không thành tiếng... như con sông không tìm thấy biển vì... làm gì có biển (!), Nhưng sau tất cả là một sức phấn đấu nội tâm rất lớn. Phấn đấu ở chỗ xác nhận chất tươi xanh vốn có của tâm hồn chọi lại với mọi già cỗi Ta thành trái mà hồn còn như lá. Xác nhận kích cỡ người Đàn bà thời nay: muốn anh thành cao thành rộng, thành sâu sắc thì em phải nhỏ như búp bê. Và nếu ta là cái vỏ ốc rỗng thì hãy ném ta vào biển để ta hiểu được muối mặn - hiểu giọt mồ hôi chát đắng nỗi trần gian. Người đàn bà tuổi Sửu này (Kỷ Sửu) cảm tạ trời đất lúc mùa xuân:
            Trâu ăn bao nhiêu cỏ
            Mùa xuân lại dâng đầy
            Cảm ơn trời che chở
            Cho trâu hoài thơ ngây.
                                                                        6-2002
V.Q.P

(nguồn: TCSH số 164 - 10 - 2002)

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • FRANÇOIS JULLIEN                                        LTS: Hạ tuần tháng tư năm 2001, nhà triết học F.Jullien đến thăm Hà Nội nhân dịp lần đầu tiên công trình của ông được giới thiệu ở Việt Nam trong văn bản tiếng Việt (Xác lập cơ sở cho đạo đức- N.x.b Đà Nẵng, 2000). Cuối năm nay sẽ được xuất bản bản dịch công trình Bàn về tính hiệu quả ( F.Jullien. Traité de l’efficacité.Grasset, 1997). Sau đây là bản dịch chương III của tác phẩm này (do khuôn khổ của tạp chí, có lược đi một số đoạn). Nhan đề do chúng tôi đặt. Trong bài, số thiên đơn thuần (chẳng hạn th.81) là số thiên trong sách Đạo Đức Kinh còn gọi là sách Lão tử.

  • NGÔ MINH Tôi quen biết với anh Tường hơn 25 năm nay ở Huế như một người bạn vong niên thân thiết. Trong máy tính của tôi còn lưu trữ bài Anh Tường ơi viết từ năm 1998, gần 3000 chữ chưa công bố. Đó là bài viết mà nhà văn Nguyễn Quang Hà, Tổng biên tập Tạp chí Sông Hương lúc đó, bảo tôi viết, sau chuyến chúng tôi đi thăm anh Tường bị trọng bệnh đang nằm hôn mê ở Bệnh viện Đà Nẵng về.

  • HỒ THẾ HÀHoàng Phủ Ngọc Tường dấn thân vào nghiệp bút nghiên bằng thơ cùng những năm tháng "hát cho đồng bào tôi nghe" sục sôi nhiệt huyết đấu tranh chống thù và ước mơ hòa bình trên quê mẹ Việt yêu dấu.

  • PHẠM PHÚ PHONG"Tôi ngồi nhớ lại tất cả nỗi trầm tư dài bên cạnh mớ hài cốt khô khốc của anh Hoàng. Trước mắt tôi, tất cả cuộc sống đầy những hùng tráng và bi thương vốn đã từng tồn tại trên mảnh đất rừng này, giờ đã bị xoá sạch dấu tích trong sự câm nín của lau lách. Như thế đấy có những con đường không còn ai đi nữa, những năm tháng không còn ai biết nữa, và những con người chết không còn hắt bóng vào đâu nữa...

  • LÊ THỊ HƯỜNG1. Yêu con người Hoàng Phủ Ngọc Tường trong thơ, quý con người Hoàng Phủ trong văn, tôi đã nhiều lần trăn trở tìm một từ, một khái niệm thật chính xác để đặt tên cho phong cách Hoàng Phủ Ngọc Tường.

  • TRẦN THÙY MAICó lần anh Hoàng Phủ Ngọc Tường nói: tính chất của người quân tử là phải "văn chất bân bân". Văn là vẻ đẹp phát tiết ra bên ngoài, chất là sức mạnh tiềm tàng từ bên trong. Khi đọc lại những bài nghiên cứu về văn hóa – lịch sử của anh Tường, tôi lại nhớ đến ý nghĩ ấy. Nếu "văn" ở đây là nét tài hoa duyên dáng trong từng câu từng chữ đem lại cho người đọc sự hứng thú và rung cảm, thì "chất" chính là sức mạnh của vốn sống, vốn kiến thức rất quảng bác, làm giàu thêm rất nhiều cho sự hiểu biết của người đọc.

  • TRƯƠNG THỊ CÚCXuất thân từ một gia đình hoàng tộc, cử nhân Hán học, giỏi chữ Hán, thông thạo chữ  Pháp, từng làm quan dưới thời Nam triều, nhưng Ưng Bình Thúc Giạ Thị là một nhân cách độc đáo.

  • HỮU VINH Chúng ta đã thưởng thức thơ, ca Huế, ca trù, hò, tuồng của thi ông Ưng Bình Thúc Giạ Thị, một nhà thơ lừng lẫy của miền sông Hương núi Ngự. Nhưng nói đến sự nghiệp văn chương của thi ông mà không nói đến thơ chữ Hán của thi ông là một điều thiếu sót lớn.

  • ĐỖ LAI THÚYQuang Dũng nói nhiều đến mây, đặc biệt là mây trời Sơn Tây, Tôi nhớ xứ Đoài mây trắng lắm! Mây là biểu tượng của tự do, của lãng du. Mây trắng là xứ sở của tiêu dao trường cửu. Chất mây lãng tử ở Quang Dũng, một phần do thổ ngơi xứ Đoài, phần kia do văn học lãng mạn.

  • CAO XUÂN HẠOĐọc bài Nỗi đau của tiếng Việt của Hữu Đạt (H.Đ) trong tuần báo Văn nghệ số 9 (2-3-2002), tôi kinh ngạc đến nỗi không còn hiểu tại sao lại có người thấy mình có thể ngồi viết ra một bài như thế. Tôi cố sức bới óc ra nghĩ cho ra người viết là ai, tại sao mà viết, và viết để làm gì. Rõ ràng đây không phải là một người hoàn toàn không biết gì về giới ngôn ngữ học Việt . Nhưng hầu hết những điều người ấy viết ra lại hoàn toàn ngược với sự thật.

  • MAI VĂN HOAN.Tôi biết Nguyễn Duy qua bài thơ “Tre Việt ” in trên báo Văn Nghệ. Từ đó, tôi luôn theo sát thơ anh. Mở trang báo mới thấy tên anh là tôi đọc đầu tiên. Với tôi, anh là một trong những người hiếm hoi giữ được độ bền của tài năng.

  • THỦY TRIỀU SUNG HUYỀN"Đây thôn Vĩ Dạ" là một bài thơ nổi tiếng của Hàn Mặc Tử đã từng có nhiều cách hiểu, cách tiếp cận khác nhau. Đành rằng ngôn ngữ thơ ca thường hàm súc, cô đọng, đa nghĩa do đó có thể có nhiều cách tiếp cận tác phẩm.

  • NGUYỄN DƯƠNG CÔNMỗi loại hình nghệ thuật ngôn từ đều có phong cách riêng trong cư xử với đối tượng mà nó phản ánh. Chính vì thế, đề tài tiểu thuyết trong khi mang những tính chất chung có của mọi thể loại văn học, nó đồng thời mang những tính chất riêng chỉ có của thể loại tiểu thuyết.

  • VĂN TÂMNhà thơ Bằng Việt (tên thật Nguyễn Việt Bằng) tuổi Tỵ (1941) quê "xứ Đoài mây trắng lắm", là một trong những thi sĩ bẩm sinh của thơ ca Việt hiện đại.

  • THANH THẢOHoàng Phủ Ngọc Tường có tập thơ "Người hái phù dung". Hoa phù dung sớm nở tối tàn, vẫn là loài hoa hiện hữu trong một ngày.

  • JOSH GREENFELDNgười Nhật vốn nổi tiếng vì tính bài ngoại của họ, thể hiện qua nghệ thuật cắm hoa và trà lễ. Tuy nhiên cũng từ rất lâu rồi nhiều nhà văn Nhật Bản vẫn quyết liệt phấn đấu mong tìm kiếm một chỗ đứng đáng kể trên các kệ sách của các thư viện nước ngoài. Họ làm thế không chỉ vì có nhiều tiền hơn, danh tiếng hơn mà còn vì một điều rằng những ai có tác phẩm được dịch nhiều ở nước ngoài thì sẽ được trân trọng, chờ đón ở trong nước!

  • BỬU NAM            Kỷ niệm 200 năm ngày sinh của văn hào Victor Hugo (1802 - 2002)1. Người ta thường gọi Hugo là “con người đại dương”. Bởi sự vĩ đại của tư tưởng và sự mệnh mông của tình cảm của ông đối với nhân dân và nhân loại, bởi sự nghiệp đồ sộ của ông bao hàm mọi thể loại văn học và phi văn học; bởi sự đa dạng của những tài năng của ông in dấu ấn trong mọi lĩnh vực hơn hai thế kỷ qua trong nền văn học và văn hóa Pháp. Đến độ có nhà nghiên cứu cho rằng: Tất cả những vấn đề lớn của nhân loại đều hàm chứa trong các tác phẩm của Hugo như “tất cả được lồng vào tất cả”.

  • LẠI MAI HƯƠNGTiểu thuyết Những người khốn khổ có một số lượng nhân vật nữ rất đông đảo, nhưng mỗi nhân vật mang một sức sống riêng, một sinh lực riêng bởi nghệ thuật xây dựng các nhân vật này không hoàn toàn đồng nhất. Bài viết sẽ đi vào khảo sát một số nữ nhân vật tiêu biểu, bước đầu thử tìm hiểu thủ pháp xây dựng và cái nhìn của Hugo đối với loại nhân vật này.

  • PHẠM THỊ LYTôi viết những dòng này vì biết rằng giáo sư Cao Xuân Hạo sẽ không bao giờ trả lời bài viết của một tác giả như anh Phạm Quang Trung và những gì mà anh đã nêu ra trong bài "Thư ngỏ gửi Giáo sư Cao Xuân Hạo đăng trên Tạp chí Sông Hương số 155, tháng 1-2002.

  • LÝ HOÀI THU“Hoàng Hà nhớ, Hồng Hà thương” ( *) (nguyên bản: Hoàng Hà luyến, Hồng Hà tình) là tác phẩm hồi ký của bà Trần Kiếm Qua viết về lưỡng quốc tướng quân Nguyễn Sơn và đại gia đình Trung Việt của ông. Bằng sức cảm hoá của những dòng hồi ức chân thực, tác phẩm của phu nhân tướng quân đã thực sự gây xúc động mạnh mẽ trong lòng bạn đọc Việt .