Đọc thơ gặp người

09:53 04/05/2009
NGUYỄN QUANG HÀNgồi đọc NGÀN NĂM SAU mà như đang ngồi nói chuyện tay đôi với Nguyễn Trọng Bính. Giọng thơ anh cũng cứ chân chất, yêu quê hương và say đời như chính con người anh. Từ thời chiến tranh, chúng tôi đã ở trong rừng với nhau. Cứ ngồi với nhau là bộc bạch hết. Một lá thư riêng, một rung động mới, chúng tôi cũng chia sẻ với nhau.

Vậy mà bây giờ đụng tới câu thơ này thì tôi bỗng giật mình:
"Một quả sim hồng hai đứa tím chung môi"
                                    (Hà Tĩnh tự giới thiệu)

Trong ca dao Việt Nam có câu: "Có trầu mà chẳng có cau, làm sao cho đỏ môi nhau thì làm". Bây giờ một quả sim chỉ bằng đầu ngón tay mà hai đứa cũng tím môi thì lạ thật. Họ chia nhau, hay môi tím này chuyền sang môi tím kia sau một cái hôn? Đã đành không phải cái hôn lướt qua. Lướt qua không đủ sức in dấu như vậy. Mừng là Nguyễn Trọng Bính đang còn sức để đằm thắm. Đó là tình yêu. Còn tình bạn, Bính vẫn cứ nặng lòng, cái độ nghiêng của lòng anh vẫn dốc về phía bạn:
"Thơ mày viết về hạt thóc
Mà đau cả chốn thị thành"
                       
(Đọc thơ bạn)
"Em vẫn đi thăm lúa
Với thơ anh dùng dằng"
                       
(Vẫn đi thăm lúa)

Ngày chia tay với Bính ở Thừa Thiên, anh quyết dứt cả vợ con để đi. Dù nhà cửa, việc làm của Ty (Vợ anh) đã yên ổn. "Vợ ở mô thủ đô ở đó". Đã có lúc quan điểm quê hương của chúng tôi là vậy, nhất là đối với lính. Bây giờ đọc thơ anh:

Năm thế kỷ đi qua tôi vẫn thấy
Gươm thù khua loảng xoảng trước hiên này
Năm thế kỷ mai sau tôi vẫn thấy
Cây đàn trời ai đó đã lên dây"
                       
(Thiên Cầm)

Thì ra sức hút anh là quê hương. Không đau đáu với đất đai không thể nghe tiếng gươm Hồ Quý Ly ngày nào. Không hòa tan hồn mình vào đất đai không thể rung động một cách ngây ngất với cây đàn trời đã lên dây như vậy. Hai chữ "Thiên Cầm" đủ sức lay động những âm hưởng trong lòng Bính. Không yêu quê hương, không thể có những câu thơ mặn lòng như muối vậy.

Hai câu thơ tôi thích nhất trong chùm thơ tự do của anh là hai câu thơ này:
''Có vực xoáy nào sâu hơn lúm đồng tiền của em.
Anh bị cuốn suốt đời trong vực ấy".

Đọc hai câu ấy, tôi thốt lên: "Bị cuốn vào đó là xứng đáng lắm Bính ạ". Tôi không tán cho Bính đâu. Những ngày chúng tôi sống với nhau, hai đứa thường đọc 4 câu này của Pê - tô - phi, giống như một tuyên ngôn của tuổi trẻ vậy: "Sống vì tình yêu và rượu ngon. Chết hy sinh cho Tổ quốc. Nếu ai được thế này. Đó là người hạnh phúc". Cái vực xoáy mà Bính quăng mình vào chẳng là rượu ngon và tình yêu đó sao?

Những bài thơ hay của Bính trong NGÀN NĂM SAU là những bài lục bát. Nói một cách khác: Thành công trong tập thơ này là chùm thơ lục bát của Nguyễn Trọng Bính. Có lẽ cũng bởi đó là những bài thơ tình.

Anh đã sống hết lòng:
"Phía anh gầm réo sục sôi
Trái tim sạt lở đắp bồi phía em"
                       
(Đôi bờ)

Để có được sự hóa thân không tiếc mình như thế, Bính đã sống thật say. Đọc thơ anh mà tôi vẫn cảm thấy cái phút ngây ngất trong Bính, và sự ngây ngất ấy thành thơ:
"Bờ môi tìm kiếm bờ môi
Tóc người sóng đánh vào tôi bập bềnh"
                       
(Không đề)

Đây là một câu thơ tình hay. Nó đúng là thơ thật. Làm người ai chẳng thèm khát tuổi trẻ của mình có được những phút bập bềnh như thế này. Người đọc có cảm giác hai người đang tắm biển với nhau trên bãi Thiên Cầm. Không nói một lời nhưng là tất cả. Có nhà bình luận nói rằng: khi lỡ để tình yêu rời khỏi tay mới cảm thấy thật rõ ràng thế nào là hạnh phúc. Nguyễn Trọng Bính cũng có lúc rất đau. Đau đến chảy nước mắt: ''Em lăn tim anh xuống vực. Xin đừng khóc nhé mai sau". Dù câu thơ vẫn rất bình tĩnh, song có lẽ đó là "Cái cười của kẻ hỏng thi". Chắc thế, đến khi đón nhận thì Bính như xoè rộng hai cánh tay mình.

Những câu thơ bình yên nhất là những câu thơ Bính viết về vợ mình.
Bài "Hoa hậu của tôi" và "Trong bão" là hai giai đoạn, là hai tính chất, được nối với nhau bằng sợi dây thời gian. Mà thời gian đồng nghĩa với thử thách.
Giai đoạn một, thời gian đã đủ để người lính Nguyễn Trọng Bính cảm nhận hết về sự thủy chung của người vợ mình. Cặp hai câu lục bát giống như một cặp câu đối vậy.

Vế một: "Em là hoa hậu của tôi
Tôi ra mặt trận bao người lãng quên"
Vế hai: "Riêng em gìn giữ vẹn nguyên
Hóa thân Mẹ Mốc kém duyên một thời".

Tôi cũng là một người lính nên rất thông cảm với người lính Nguyễn Trọng Bính qua những nỗi thảng thốt đó. Không thảng thốt sao được, vì trên đời này, khi còn loài người, thì còn đó những tên Sở Khanh. Sở Khanh nhan nhản. Nguyễn Trọng Bính đã rất tỉnh táo để lấy ngay Sở Khanh làm một thử thách, để tự khẳng định tình yêu của mình, khẳng định lòng thủy chung. Anh viết:
"Gặp ai đều giả Sở Khanh
Em bông sen chẳng hôi tanh mùi bùn".

Có thể gọi Sở Khanh là một cửa Vũ Môn của tình yêu. Không, không ít Sở Khanh đã làm tan tác hạnh phúc gia đình người lính. Nhưng hoa hậu của Bính là một thắng lợi, một chiến công trong người đời lính của anh. Vì vậy, khi "Trong bão" Nguyễn Trọng Bính đã thảnh thơi lo toan dù trong tâm thức, ta vẫn thấy anh vững vàng:

"Đêm nay mưa bão liên miên
Ngôi nhà ta có vững vàng hay không?"
Và tự tin biết bao:
"Trong anh mưa bão tơi bời
Gửi về em một khoảng trời bình yên".
                       
(Trong bão)

Thơ Nguyễn Trọng Bính là tâm tình và cả là trải nghiệm. Nó trong trẻo đằm thắm như hồn anh, như đời anh. Trải nghiệm rồi, nên anh mến yêu cuộc đời này, anh yêu tin nó. Và trái tim anh nhìn cuộc đời, như nhìn qua một thấu kính trong vắt. Bởi chính vậy, ta thấy anh cười, một nụ cười của tin yêu:

"Nghìn năm sau vẫn còn tôi
Đắm say giữa triệu triệu người mến thương"
                       
(Ngàn năm sau)

Câu lục bát kết thúc một tập thơ, nó cứ âm vang, âm vang như một câu hát bay thướt tha cùng gió giữa đời

N.Q.H

(168/02-03)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • PHAN THUẬN AN"Khóc Bằng phi" hay "Khóc Thị Bằng" là một bài thơ nổi tiếng xưa nay, nhưng tác giả của nó là ai thì chưa được xác minh một cách cụ thể. Người ta thường cho rằng bài thơ trữ tình này là do vua Tự Đức (1848-1883) làm ra để thương tiếc một bà cung phi tên là Thị Bằng còn rất trẻ đẹp nhưng chết sớm.

  • HÀ VĂN LƯỠNGTrong văn học Nga thế kỷ XX, Aleksandr Solzhenitsyn là một trong những nhà văn lớn, nổi tiếng có nhiều đóng góp cho nền văn học Nga trên nhiều phương diện, một người suốt đời tận tụy và kiên trì đấu tranh cho sự chiến thắng của nghệ thuật, của sự thật đối với những cái xấu, cái ác. Nhưng ông cũng là một nhà văn có cuộc đời đầy thăng trầm, bất hạnh và phức tạp.

  • BÙI LINH CHIAnnemarie Selinko (1914-1986) là một nhà báo, nhà tiểu thuyết gặt hái được một số thành công trong sự nghiệp tại Tổ quốc của mình là nước Áo. Trong những tháng ngày chạy nạn 1943, bà đã cùng chồng đến Thụy Điển, đã chứng kiến những làn sóng người tị nạn phải rời bỏ quê hương trước ý chí ghê gớm của kẻ độc tài khát máu Himler gây ra.

  • TRẦN HUYỀN SÂM1. Nobel là một giải thưởng danh giá nhất, nhưng cũng chứa đựng nhiều nghịch lý nhất trong tất cả các giải thưởng. Riêng giải Nobel văn học, bao giờ cũng gây tranh cãi thú vị. Bởi vì, Hội đồng Viện Hàn Lâm Thụy Điển phải trung thành với lời di chúc của Alffred Nobel: trao tặng giải thưởng cho người sáng tạo ra tác phẩm văn học xuất sắc nhất, có khả năng định hướng lý tưởng cho nhân loại.

  • NGUYỄN THỊ MAI(Nhân đọc tập thơ “Ra ngoài ngàn năm” của nhà thơ Trương Hương - NXB Văn học – 2008)

  • LÊ HUỲNH LÂMDạo này, thỉnh thoảng tôi nhận được tin nhắn “nhìn đời hiu quạnh”, mà theo lời thầy Chạy đó là câu của anh Định Giang ở Vỹ Dạ mỗi khi ngồi nhâm nhi. Khi mắc việc thì thôi, còn rảnh rang thì tôi đến ngồi lai rai vài ly bia với thầy Chạy và nhìn cổ thành hắt hiu, hoặc nhìn cội bồ đề đơn độc, nhìn một góc phố chiều nguội nắng hay nhìn người qua kẻ lại,… tất cả là để ngắm nhìn cõi lòng đang tan tác.

  • THU NGUYỆTLTS: Tập truyện Cánh đồng bất tận của nhà văn Nguyễn Ngọc Tư được giới chuyên môn đánh giá cao như một hiện tượng văn học trong thời gian gần đây. Giữa lúc đông đảo bạn đọc đang hứng vị với hiện tượng này thì có một hiện tượng khác “ngược chiều” đã gây sốc dư luận.Để bạn đọc Sông Hương có thêm thông tin, chúng tôi xin trích đăng một số ý kiến sau đây.

  • HIỀN LƯƠNGVậy là Nguyễn Ngọc Tư sẽ bị kiểm điểm thật. Cầm tờ biên bản của Ban Tuyên giáo tỉnh Cà Mau trên tay, trong tôi trào dâng nhiều cảm xúc: giận, thương, và sau rốt là buồn...

  • BÙI VIỆT THẮNGTôi có theo dõi “vụ việc Nguyễn Ngọc Tư” đăng tải trên báo Tuổi trẻ (các số 79, 80, và 81 tháng 4 năm 2006) thấy các ý kiến khen chê thật ngược chiều, rôm rả và quyết liệt. Kể ra không có gì lạ trong thời đại thông tin mọi người đều có quyền cập nhật thời sự, nhất là trong lĩnh vực văn chương vốn rất nhạy cảm.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ“Người kinh đô cũ” (NKĐC - NXB Hội Nhà văn, 2004) là tác phẩm thứ 14 của nhà văn Hà Khánh Linh, cũng là tác phẩm văn học dày dặn nhất trong số tác phẩm văn học của các nhà văn ở Thừa Thiên - Huế sáng tác trong khoảng 20 năm gần đây.

  • HỒ THẾ HÀ   Trong cuộc đời mỗi con người, điều sung sướng nhất là được hiểu biết, khám phá và sáng tạo để ý nghĩa tồn sinh không ngừng được khẳng định và nâng lên những tầm cao mới. Theo đó, những thang bậc của nhận thức, nhân văn, của thành quả lao động lại biến thành những giá trị văn hoá vật thể và phi vật thể lấp lánh lời giải đáp.

  • TÔ VĨNH HÀNếu có thể có một miền thơ để mà nhớ mong, khắc khoải; tôi tin mình đã tìm được rồi, khi đọc Mưa Kim Cương của nhà thơ Đông Hà (Nxb Thuận Hoá, Huế, tháng 11.2005). Sợi dây mảnh mục như các khớp xương đan chằng, xéo buốt, chơi vơi; được giăng giữa hai bờ lở xói của cuộc đời. Trên cao là “hạt” kim cương thô ráp và gan lỳ hơn cả là đá nữa, nhưng lại giống với thân hình thần Vệ Nữ đang rơi, đang rơi, nhọn sắc, dữ dằn... Minh hoạ ở trang bìa xanh và sâu thẳm như những trang thơ.

  • TRẦN THANH HÀLGT: Có thể nói rằng, “Tiểu thuyết và tiểu luận về tiểu thuyết của Milan Kundera được xem như là một trong những hiện tượng độc đáo đáng được chú ý trong văn học Châu Âu hiện đại”. Mỗi cuốn tiểu thuyết cô đọng của nhà văn, mang lại cho độc giả một cái nhìn độc đáo về thế giới hiện đại và vị trí con người trong đó, một thứ triết học riêng về cuộc sống và mối quan hệ liên cá nhân, “các chủ đề sắc sảo và các tính cách con người sinh động được kết hợp với những suy tư về các đề tài triết học và hiện sinh mang tính toàn cầu”.

  • HOÀNG VĂN Đọc Hoang thai ta có thể hình dung ra xã hội Ba Lan đương đại và những vấn đề nẩy sinh trong xã hội này.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊGặp nhà văn - dịch giả Đoàn Tử Huyến - một người “chơi” sách có hạng ở đất Hà Thành - tại nhà sách lớn của Trung tâm văn hoá ngôn ngữ Đông Tây mới khai trương trên khu Cầu Giấy, trước ngày hội thảo về tiểu thuyết “Mẫu Thượng ngàn” của Nguyễn Xuân Khánh, tôi hỏi: “Có đúng là ông đã nói trên một tờ báo rằng “Một tác phẩm kiệt xuất như “Nghệ nhân và Margarita” (NNVM) mà chưa có một nhà phê bình Việt Nam nào sờ đến cả! “Đúng vậy không?” Đoàn Tử Huyến cười nhăn cả mũi: “Thì đúng vậy chứ sao!”

  • HOÀNG VŨ THUẬT(Đọc Hoạ mi năm ngoái - Thơ Trần Kim Hoa, NXB Văn học, 2006)

  • LTS: Sông Hương vừa nhận được lá thư của ông Tế Lợi Nguyễn Văn Cừ gửi cho nhà nghiên cứu Phan Thuận An nhằm cung cấp lại bản gốc của bài thơ “Cầu ngói”. Xin nói thêm, ông Nguyễn Văn Cừ là con của ông Nguyễn Văn Lệ, tác giả bài thơ.Sông Hương xin đăng lá thư này để hầu mong rộng đường trao đổi.

  • HOÀNG VŨ THUẬT(Đọc Ngày không ngờ - thơ Nguyễn Bình An, NXB Thuận Hóa 2007)

  • VĨNH NGUYÊN(Nhân xem tập thơ Nhật thực của Nhất Lâm, Nxb Thanh Niên, 2008)

  • NGÔ MINHLTS: Ngày 13-2-2007, Bộ Văn hoá Thông tin đã công bố quyết định của Chủ tịch nước CHXHCN Việt Nam về việc tặng giải thưởng Hồ Chí Minh và giải thưởng nhà nước về văn học nghệ thuật. Nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ được là 1 trong 47 nhà văn được giải thưởng nhà nước với chùm tác phẩm: Đề tặng một giấc mơ (tập thơ 1988), Trái tim sinh nở ( tập thơ - 1974), Bài thơ không năm tháng (tập thơ - 1983). Nhân dịp ngày Quốc tế phụ nữ 8-3, TCSH xin giới thiệu bài viết của nhà thơ Ngô Minh về nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ.