Đọc lại “Hiểu quá Hương giang” của Cao Chu Thần

09:06 23/08/2011
HỒNG NHU

Chu thần Cao Bá Quát - Ảnh: internet

[if gte mso 9]> Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 <![endif][if gte mso 9]> <![endif][if gte mso 10]> <![endif]

Phiên âm:

Hiểu quá Hương giang
 
Vạn chướng như bôn nhiễu lục điền
Trường giang như kiếm lập thanh thiên
Sở hàng ngư đỉnh liên thanh trạo
Lưỡng cá sa cầm khuất túc miên
Trần lộ du du song quyện nhãn
Viễn tình hạo hạo nhất quy tiên
Kiều đầu xa mã phi ngô sự
Phả ái nam phong giác chẩm biền

Dịch thơ:

Buổi sáng qua sông Hương

Núi ôm ruộng biếc chạy vòng quanh
Sông dài như kiếm dựng trời xanh
Thuyền nằm ngư phủ hò liền giọng
Bãi đứng sa cầm ngủ giấu chân
Đường trần dằng dặc mòn hai mắt
Roi ngựa mang mang ruổi một tình
Qua cầu xe cộ ta đâu nghĩ
Gió Nam sừng gối thảnh thơi nằm.
                       
(Hồng Nhu dịch)

Cảnh sắc và con người thời xưa vào một buổi sáng trên sông Hương thật lạ lùng và tráng lệ. Người tráng sĩ một mình một ngựa về qua mà lòng dội lên bao nhiêu thăng trầm mỏi mệt mà cuộc đời của chàng đã nếm trải. Còn giờ đây, chàng chỉ muốn quên đi các buổi xe ngựa rợp rờn và lọng cờ hoành tráng qua sông trong quá khứ để mơ tưởng đến một chiếc gối sừng trên đó chàng gối đầu thảnh thơi nằm ngủ trong luồng gió nam dịu mát lồng lộng dưới trời. Đôi con mắt đã mỏi rồi khi nhìn thế sự trôi qua trên đường trần gió bụi mịt mù đằng đẵng, chỉ còn lại một mình với chiếc roi ngựa quay về, với một mối tình xa man mác, bâng khuâng cùng rong ruổi. Tình gì ở đây? Rõ là tình riêng, nhưng không phải tình yêu trai gái mà là tình non sông đất nước, tình con người đã ngấm sâu xa trong lòng của một con người từng trải như chàng. Muôn nghìn ngọn núi chạy quanh như ôm ấp, chở che lấy ruộng đồng xanh biếc, đã nói lên tình yêu tha thiết của chàng đối với làng xóm quê hương, mặc dù non sông đây, đất đai đây không phải là nơi chôn rau cắt rốn của chàng. Rồi hàng hàng chiếc thuyền đánh cá nằm trên bến với tiếng hò đưa mái không ngớt của những người ngư phủ vang lên rộn rã, trong lúc ở bãi bên kia, đôi chim bói cá vẫn thản nhiên say sưa co một chân đứng ngủ. Cảnh vật tuyệt vời như tranh vẽ, tưởng có thể sờ nắm được này đã làm chàng xốn xang không nguôi về vẻ đẹp truyền thống, vẻ đẹp dân giã của người dân quê nước Việt.

Nghệ thuật của bài thơ đạt đến trình độ cao siêu ngay từ câu đầu phá đề. Đến câu thừa đề để bổ sung cho câu thứ nhất thì bỗng dưng “Trường giang như kiếm lập thanh thiên”! Do đâu và vì sao mà Cao Bá Quát đã tả chẳng giống ai về con sông thơm nơi đất kinh đô? Có lẽ lúc bấy giờ ông đang canh cánh bên lòng một sự nghiệp mới mà giờ phút này nó chưa hiện hữu, chỉ mới là dự cảm có quan hệ đến chuyện kiếm cung. Con sông chảy dài dưới trời mà như một thanh kiếm. Thanh kiếm đó ở tư thế không phải lúc ở chiến trường chém giặc thù lia ngang hoặc lia dọc, bổ từ trên đầu xuống hoặc đâm ngược từ dưới bụng lên. Mà là dựng đứng giữa trời. Câu thừa đề này không chỉ làm bổ ý cho phá đề mà còn như một tuyên ngôn ý tại ngôn ngoại, một tuyên ngôn lạ lùng và sâu thẳm khiến người đọc giật mình, dựng người lên vì sửng sốt. “Kiếm lập thanh thiên”, nhãn tự này thiết nghĩ không ai nói nổi, làm nổi, chỉ duy nhất mỗi Cao Chu Thần, độc nhất vô nhị. Đến bốn câu tiếp theo (thực và luận) mới thật kinh dị. Hai câu đầu như lặng im kéo ta về thực tại trước mắt là nét thơ mộng và độc đáo của con sông xứ Thần kinh. Hai câu năm và sáu bật ra nỗi lòng trầm u mà sôi sục của thi nhân. “Trần lộ du du” đối với “Viễn tình hạo hạo”, đường trần dằng dặc đối với tình xa man mác; “song quyệt nhãn”- hai mắt đã mòn đối với “nhất quy tiên” một roi ngựa về. Quá hay! Mắt đã mòn nhưng không phải không nhìn đời nữa, mà là nhìn thâm thúy hơn, nhân văn hơn. Một mình một ngựa đi về nhưng chẳng phải đã bó tay trước thế thái nhân tình. Cái sục sôi của thi nhân là cái sục sôi lặng thầm, báo hiệu một điều lớn lao sắp xảy ra. Chẳng rõ lắm “Hiểu quá Hương Giang” được làm ngày tháng năm nào, nhưng qua tình ý của thi phẩm, tôi đoan chắc là vào thời gian mà Cao Bá Quát từ quan về nhà mưu tính sự nghiệp khác. Bấy giờ là lúc lang trung Cao Bá Quát được cử đi làm sơ khảo ở trường thi hương Thừa Thiên, ông đã phát hiện một số cuốn thơ hay nhưng phạm húy, do lòng mến tài thương người ông đã tìm cách giúp đỡ; việc bại lộ ông đã bị vua Thiệu Trị bắt giam. Sau được tha và bị thải hồi. Vua Tự Đức sau này biết Cao là người tài, triệu hồi về kinh cho vào làm việc ở hàn lâm viện; thời gian này ông kết bạn với mấy danh sĩ tiếng tăm lẫy lừng ở Huế như Nguyễn Hàm Ninh, Nguyễn Văn Siêu, Miên Thẩm, Miên Trinh...

Cái điều lớn lao sắp xảy ra này đó là lúc ông “nổi loạn” làm quân sư cho một cuộc khởi nghĩa của nông dân ở quê ông chống lại triều đình nhà Nguyễn, bị bắt rồi bị xử tử.

Người đời lúc bấy giờ tôn vinh Cao Bá Quát là thánh thơ, “Thánh Quát”, bên cạnh bạn ông là Nguyễn Văn Siêu, “Thần Siêu”. Kể đến giờ đây, giữa thời hiện đại này, danh hiệu “thánh Quát” của ông vẫn đúng. Sự nghiệp thơ ca của ông để lại cho ta thật đồ sộ, nhưng mỗi riêng “Hiểu quá Hương Giang” cũng đủ cho ta thấy câu như tục ngữ trên của nhân dân là chính xác.

Xưa nay, thơ viết về sông Hương quá nhiều, đặc biệt là trong thời đại này. Song, chúng tôi nghĩ “Hiểu quá Hương Giang” chưa có ai sánh được, chưa ai vượt qua được.

03/06/2011
H.N
(270/08-11)






Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGUYỄN VĂN HOA(Nhà xuất bản Lao Động phát hành 2004)

  • PHẠM NGỌC HIỀNChưa lúc nào trong lịch sử Việt , các nhà văn hoá ta lại sốt sắng ra sức kêu gọi bảo tồn nền văn hoá dân tộc như lúc này. Xu hướng toàn cầu hoá nền kinh tế công nghiệp cộng với xa lộ thông tin đã mang theo những ngọn gió xa lạ thổi đến từng luỹ tre, mái rạ làm cho "Hương đồng gió nội bay đi ít nhiều". Mà "Trách nhiệm của mỗi dân tộc là phải thể hiện rõ bản sắc của mình trước thế giới" (R. Tagor).

  • NGUYỄN THANH MỪNG                Miền duyên hải Nam Trung bộ gần gũi với Tây Nguyên lắm lắm, Bình Định gần gũi với Gia Lai lắm lắm, ít nhất ở phương diện địa lý và nhân văn. Ừ mà không gần gũi sao được khi có thể chiều nghe gió biển Quy Nhơn, đêm đã thấm trên tóc những giọt mưa Pleiku. Giữa tiếng gió mưa từ nguồn tới bể ấy nhất thiết bao nhiêu nỗi lòng ẩn chứa trong tiếng thơ diệu vợi có thể chia sẻ, bù đắp được cho nhau điều gì đó.

  • NGUYỄN QUANG HÀSau ba tập: Thơ viết cho em - 1998, Lối nhớ - 2000, Khoảng trời - 2002, năm 2004 này Lê Viết Xuân cho xuất bản tập thơ thứ tư: Đi tìm.

  • NGÔ MINHThật may mắn và hạnh phúc là Hoàng Phủ NgọcTường đã vượt qua được cơn tai biến hiểm nghèo của số phận, để được tiếp tục đến với đọc giả cả nước trong suốt mười một năm nay. Đối với tôi, khi bên chiếu rượu ngồi nghe anh Tường nói, hay đọc bút ký, nhàn đàm, thơ của Hoàng Phủ là những lần tôi được nghe các “cua” ngoại khóa sâu sắc về nhân văn và nghề văn.

  • VÕ THỊ XUÂN HÀVào rằm tháng Giêng năm 2003 tại Văn Miếu - Quốc Tử Giám, Hà Nội, Ngày Thơ Việt Nam lần thứ nhất được tổ chức long trọng. Mở đầu bằng lễ kéo Lá cờ Thơ, rồi ngâm đọc bài thơ Nguyên tiêu của Hồ Chí Minh. Sau đó là các chương trình giao lưu thơ với công chúng, đọc những bài thơ hay nhất của đất nước, ngâm thơ, bình thơ v.v…

  • VÔNG VANGCó thể nói cùng với chiều dài lịch sử của vùng đất Thuận Hóa - Phú Xuân, không thể và không khi nào mà khi nói đến nơi đây người ta lại không nhắc đến Thơ. Bởi vì ngoài “nhiệm vụ” là một bức thông điệp giúp cho ta biết hơn về lịch sử, về con người, Thơ còn giúp ta hiểu hơn về chính nó, về một ký ức lãng đãng đang trôi qua từ thẳm sâu trong trí nhớ, trong cái thăng hoa luân chuyển của vũ trụ và của chính con người.

  • TRẦN THÙY MAI(Đọc “Thơ của người cô độc” tập thơ của Tường Phong, NXB Thuận Hóa xuất bản)

  • TRẦN HỮU LỤCChân dung Huế (*) - tập bút ký nhân vật, là một trong 12 đầu sách liên kết giữa Tủ sách Nhớ Huế với NXB Trẻ.

  • BÍCH PHƯỢNG thực hiệnLTS: Trong dịp vào Huế thực hiện một số phim trong chương trình “Người của công chúng” (Đài Truyền hình Việt Nam), nhà báo Bích Phượng đã có dịp tìm hiểu tác phẩm, gặp gỡ trò chuyện với nhà văn Nguyễn Khắc Phê tại ngôi nhà vuờn xinh đẹp của ông trên đường Xuân Diệu. Ông đã trả lời một cách cởi mở và thẳng thắn những vấn đề đặt ra.

  • NGUYỄN PHÚC VĨNH BATrong cuốn “Hồ sơ văn hoá Mỹ”, nhà nghiên cứu Hữu Ngọc có giới thiệu một số nhà thơ cổ điển Mỹ như Walt Whitman, Edgar A. Poe, Henri W. Longfellow… Về Longfellow, ông Hữu Ngọc viết:“Nếu không đòi hỏi tâm lí và tư duy sâu sắc thì có thể tìm ở thơ Longfellow sự trong sáng, giản dị, cảm xúc nhẹ nhàng, bâng khuâng, hình ảnh duyên dáng và âm điệu du dương. Ông làm thơ về lịch sử và truyền thuyết, đất nước và thiên nhiên, ông ca ngợi tình thương, lòng tốt, chịu đựng cuộc đời.

  • LÊ HUỲNH LÂMTừ “Vọng sông quê” đến “Mang” của Nhà xuất bản Trẻ, rồi “Gửi thiên thần” của Nhà xuất bản CAND và bây giờ là “Đồng hồ một kim” của Nhà xuất bản Văn Học” được gửi đến bạn đọc, Phan Trung Thành đã khẳng định được gương mặt thơ của thế hệ 7.X. Ở đây, số lượng tác phẩm không định hình nên một gương mặt thơ, mà chính những câu chữ đã vẽ lên chân dung một nhà thơ.

  • TIỂU VĂNGiữa tháng 11 năm 2008, tôi được dự một buổi hội thảo nói chuyện chuyên đề về sách tại Zen Café (phố Ngọc Hà). Đây là buổi nói chuyện của tác giả - dịch giả Lê Thị Hiệu, với bút danh thường gọi là Hiệu Constant, giới thiệu về tác phẩm đầu tay của chị - tiểu thuyết Côn trùng. Buổi nói chuyện nằm trong chương trình “Tôn vinh Văn hóa Đọc” do Công ty Truyền thông Hà Thế khởi xướng và tổ  chức.

  • HÀ KHÁNH LINHHồng Nhu truyện ngắn, Hồng Nhu thơ… Lần đầu tiên nhìn thấy Hồng Nhu xuất hiện tiểu thuyết tôi thực lòng rất mừng. Tuy nhiên đọc gần hết hai chương đầu nỗi lo cứ cồm cộm lên trong tâm thức nhưng chính gần cuối chương II cái chất tiểu thuyết mới bắt đầu hé lộ ra, để rồi từ đó lôi cuốn người đọc cho đến hết truyện.

  • LÊ QUANG TƯCông trình Văn học Việt Nam thế kỷ X-XIX (những vấn đề lý luận và lịch sử)(1) được biên soạn bởi Trần Ngọc Vương (chủ biên), Trần Nho Thìn, Nguyễn Văn Thịnh, Trần Nghĩa, Đoàn Lê Giang, Kiều Thu Hoạch, Cao Tự Thanh..., do nhà xuất bản Giáo dục in năm 2007, dày 912 trang.

  • LÝ HOÀI XUÂN(Nhân đọc tập thơ “Mẹ!” của Văn Lợi – NXB Thuận Hoá, 2006)

  • TRẦN HUYỀN SÂMNhư con thú hoang ôm vết thương lòng đi tìm nơi trú ẩn, gương mặt người thiếu phụ mang nỗi buồn tiền kiếp - tự ngàn xưa: Người thiếu phụ có đôi mắt buồnĐi lang thang trong chiều mùa hạNỗi cô đơn lây sang cả đá...

  • MAI VĂN HOANNgười đời thì lập ngôn còn Nhụy Nguyên thì “lập thiền”. Thú thực tôi chưa hiểu hết dụng ý của Nhụy Nguyên khi đặt tên cho tập thơ đầu tay của mình là Lập thiền. Bản thân từ Hán Việt vốn ẩn chứa nhiều tầng nghĩa.

  • BỬU NAMI. Văn học Mêhicô ở thế kỷ XX, có lẽ được xem như một nền văn học năng động và sáng tạo nhất Châu Mỹ La tinh. Táo bạo trong những tìm tòi mới, linh hoạt uyển chuyển trong cách diễn tả, đa dạng phong phú trong cách sử dụng các cấp độ ngôn ngữ, sáng suốt trong cách chọn lựa đề tài, hình thức, ngôn ngữ: tiểu thuyết và truyện ngắn ở Mêhicô tạo được những không gian sáng tạo và đổi mới một cách tự do.

  • NGUYỄN TÝ51 bài thơ cùng 8 ca khúc được phổ thơ của Trần Hữu Lục vỏn vẹn 120 trang qua tập thơ “Vạn Xuân” (*) mới nhất của anh, người đọc đồng cảm cùng tác giả- một người con xứ Huế tha phương.