PHONG LÊ
Anh "nhà quê" "chơi trèo" thành phố, với những thất bại và bi kịch khó tránh của nó. Mối quan hệ so le, bất bình đẳng giữa nông thôn và thành thị...
Ảnh: internet
![]() |
Ảnh: internet |
Có vẻ to chuyện quá chăng? Nhưng quả Thời xa vắng là những trang bi kịch về sự hôn phối đó, sự xen cài vào nhau đó: chiến tranh rồi hòa bình, nông thôn ra thành phố, "nhà quê" và "kẻ chợ"... Không phải người viết đưa hai mảng ngẫu nhiên bập vào nhau, cho tồn tại bên nhau; mà đưa hai mảng vào như là sự tiếp tục và phát triển tự nhiên của lịch sử. Đất nước nông nghiệp - con người nông dân rồi phải bước vào một nền văn minh mới - văn minh công nghiệp và đô thị; người anh hùng nông dân trong thời chiến rồi phải về sống với thời bình. Song song, và như là sản phẩm tất yếu quá trình đó, sự phát triển của người nông dân nói riêng, của con người trong xã hội nông nghiệp nói chung rồi phải đi tới quá trình bứt ra, rẩy ra khỏi cuống nhau cộng đồng mà khẳng định cái riêng của mình: hạnh phúc, lợi ích riêng, quyền lựa chọn, quyền quyết định, và trách nhiệm với chính bản thân mình. Không phải ai khác ngoài anh, ngay cả những người ruột thịt, chọn lựa hạnh phúc cho anh, quyết định số phận của anh, mà chính anh phải quyết định lấy. Cả một đời, cho đến gần tuổi 40, cái anh thanh niên nông dân Giang Minh Sài đó đã để cho người khác quyết định tất tật toàn bộ hạnh phúc đời tư của mình. Cho đến lúc trượt đến đáy dốc bất hạnh, anh mới dám quyết định để được là mình; ấy là lúc anh ly dị cô vợ mà bố mẹ, gia tộc, dòng họ quyết định ghép cho anh. Cuốn sách chấm dứt màn một ở đấy. Cần nói thêm chút ít. Nếu không có cuộc chiến tranh, hoặc tiếp đó, nếu xã hội cứ tiếp tục là sự đình trệ và phong bế của chế độ phong kiến, mà không có bất cứ nhu cầu giao lưu mà phát triển nào, thì anh Giang Minh Sài cứ ở tại chỗ, hoặc lộn về quê, và không có bất cứ sự thay đổi nào cả.
Sang màn hai, là lúc người anh hùng Giang Minh Sài dám tự quyết định lấy hạnh phúc cho mình: đến với Châu, xây dựng tình yêu và hạnh phúc với Châu. Nhưng lần này lại vẫn tiếp tục một thất bại mới, không những hạnh phúc đã không nắm được, mà còn sa vào một hố thẳm mới đầy nhọc nhằn và đau khổ. Và lần này thì anh hãy cắn răng chịu đựng lấy một mình, tự hành xác mình trong một "cuộc sống mới" không thuộc đà đi, không nằm trong tầm đón của anh. Anh đã không có sự chuẩn bị sơ đẳng cho cuộc sống ấy. Anh có một ý chí tự học để lập nghiệp rất cao. Anh có một quá khứ chiến đấu anh hùng. Anh có một tuổi thơ lam lũ ở làng Hạ Vị, vừa lười biếng vừa chăm chỉ trong cái nghiệp làm thuê đã thành tật, thành thói quen ở anh. Anh có một quan hệ giao thiệp gồm không ít người thân kẻ sơ trong thế giới gia đình và bạn bè... Thế nhưng tất cả đó đều không phải là sự chuẩn bị cho anh trong cuộc tìm chọn hạnh phúc mới này. Anh đã không đủ tri thức (mà chỉ có sự khao khát và thành tâm của một tâm hồn cang hạn) để hiểu mình đã bị phản bội từ đầu trong tình yêu (Châu đã có thai với Toàn). Nỗi mừng vui và vinh hạnh được hưởng một tình yêu "sang trọng" còn chưa thấm thì đã đến ngay nỗi nhục của một người chưa có mấy tri thức "thị thành" và thói quen của một người suốt đời cam chịu sai bảo. Tôi không thấy rõ tính điển hình của một bi kịch "chơi trèo", nếu muốn đặt vào đây mối quan hệ nông thôn và thành thị. Ở các thành phố ngay từ sau 1954, và cho đến bây giờ, vẫn đầy rẫy người nông thôn thuộc các tầng lớp ra cư ngụ, trong đó có không ít người đã được tri thức hóa, thành thị hóa; không phải tất cả đều phải trải nghiệm bi kịch. Tôi vẫn chỉ tiếp tục thấy ở đây cái bi kịch của Giang Minh Sài, khi đã dám quyết định chọn lựa hạnh phúc cho mình mà vẫn không tìm ra hạnh phúc, vì không phải chỉ ở sự thiếu sáng suốt do không đủ kinh nghiệm lúc đầu mà vẫn là sự tiếp tục của một cách sống, của tính cách chấp nhận sự sai bảo. Rõ ràng "cái số" về đường vợ con của anh ta là vậy. Nói tính cách đẻ ra số phận cũng là vậy, nhưng thôi, đi sâu vào khía cạnh này lại nảy ra một câu chuyện khác.
Bi kịch của một cá nhân đi tìm mình, muốn được là mình, muốn tự khẳng định mình, nhưng do đã "quá quen mất nết đi rồi", nên vẫn chưa tìm được, mặc dầu đã được xã hội "cởi trói"! Giá anh yên bề đi thì ra một nhẽ! Không, anh không chịu yên, nên là bi kịch. Dường như ở ta cái cá nhân đang hình thành - một nhà nghiên cứu thích khái quát đã nói thế. Quả có phần đúng. Cái cá nhân đang hình thành sau một quá trình dành phần cho cái cộng đồng - hàng nghìn năm là gia tộc và dòng họ; mấy chục năm sau cách mạng là tổ quốc, nhân dân, là Đảng và đoàn thể, là đơn vị và tập thể, dẫu khía cạnh nhất trí giữa cá nhân và cộng đồng cũng là có. Mọi sự hình thành cái mới nào trong những chuyển đoạn của lịch sử, trong đó có cái cá nhân, cũng vừa mang niềm vui vừa đầy bi kịch, ở Giang Minh Sài, đó là cái bi kịch. Nhưng với xã hội nói chung, nó lại mang niềm vui. Những nỗi đau sinh đẻ là thế! Con người ở "Thời xa vắng" là thế. Phải trải qua nó để mà từ giã nó.
***
Một phương diện khác, để bổ sung thêm đóng góp của Lê Lựu. Cuốn sách là một chân dung, một số phận của anh thanh niên Giang Minh Sài. Nếu được viết trước dăm hoặc mười năm nó sẽ phải là một chân dung tích cực; và chỉ cần được hiểu như một chân dung tích cực. Một thanh niên nông thôn thông minh, có ý chí tự học rất cao, luôn luôn đạt các kết quả, trở thành niềm tự hào không chỉ cho gia đình, giòng họ mà cả làng. Anh đi bộ đội, rồi vào chiến trường, lập nhiều chiến công và thành anh hùng, được cả nước biết tên. Đời tư anh có chút bi kịch, nhưng rồi anh đã vượt lên vì ánh sáng của lý tưởng, vì xác định "vui duyên mới không quên nhiệm vụ" - huống nữa đây không có chuyện "vui" hoặc "duyên" - để vì sự nghiệp chung... Nhưng cái bề mặt phẳng phiu và rực rỡ các chiến công ấy, Lê Lựu đã khơi vào cả một tầng sâu những bất hạnh và bi kịch tiếp tục không dứt trong cả cuộc đời Giang Minh Sài, và cuối cùng, là trắng tay, là thất bại.
Giang Minh Sài thất bại. Nhưng cả xã hội thì thắng lợi. Cả xã hội đang vật vã trong những chuẩn bị cho cái "Thời xa vắng" ấy qua đi. Cho không còn những bi kịch kiểu Giang Minh Sài. Cho những Giang Minh Sài khác được sống là mình ngay từ đầu. Cuộc chiến hẳn còn là vất vả, không dễ tính bằng năm, mà hàng chục năm, nhiều chục năm, có lẽ!
Thời điểm 1984 khi cuốn sách được viết ra là quá muộn so với sự chuyển giai đoạn cách mạng đã diễn ra từ 1975; nhưng vẫn cứ là đóng góp, là sự đón trước cái yêu cầu "nhìn thẳng vào sự thật" và nhận thức lại lịch sử được đề ra với đại hội VI, năm 1986. Cuốn sách có giá trị một đóng góp tiền trạm là thế!
P.L
(TCSH49/05&6-1992)
------------
(*) Góp vào việc nhận dạng sự nghiệp đổi mới văn học và văn học trong đổi mới.
VÔNG VANGCó thể nói cùng với chiều dài lịch sử của vùng đất Thuận Hóa - Phú Xuân, không thể và không khi nào mà khi nói đến nơi đây người ta lại không nhắc đến Thơ. Bởi vì ngoài “nhiệm vụ” là một bức thông điệp giúp cho ta biết hơn về lịch sử, về con người, Thơ còn giúp ta hiểu hơn về chính nó, về một ký ức lãng đãng đang trôi qua từ thẳm sâu trong trí nhớ, trong cái thăng hoa luân chuyển của vũ trụ và của chính con người.
TRẦN THÙY MAI(Đọc “Thơ của người cô độc” tập thơ của Tường Phong, NXB Thuận Hóa xuất bản)
TRẦN HỮU LỤCChân dung Huế (*) - tập bút ký nhân vật, là một trong 12 đầu sách liên kết giữa Tủ sách Nhớ Huế với NXB Trẻ.
BÍCH PHƯỢNG thực hiệnLTS: Trong dịp vào Huế thực hiện một số phim trong chương trình “Người của công chúng” (Đài Truyền hình Việt Nam), nhà báo Bích Phượng đã có dịp tìm hiểu tác phẩm, gặp gỡ trò chuyện với nhà văn Nguyễn Khắc Phê tại ngôi nhà vuờn xinh đẹp của ông trên đường Xuân Diệu. Ông đã trả lời một cách cởi mở và thẳng thắn những vấn đề đặt ra.
NGUYỄN PHÚC VĨNH BATrong cuốn “Hồ sơ văn hoá Mỹ”, nhà nghiên cứu Hữu Ngọc có giới thiệu một số nhà thơ cổ điển Mỹ như Walt Whitman, Edgar A. Poe, Henri W. Longfellow… Về Longfellow, ông Hữu Ngọc viết:“Nếu không đòi hỏi tâm lí và tư duy sâu sắc thì có thể tìm ở thơ Longfellow sự trong sáng, giản dị, cảm xúc nhẹ nhàng, bâng khuâng, hình ảnh duyên dáng và âm điệu du dương. Ông làm thơ về lịch sử và truyền thuyết, đất nước và thiên nhiên, ông ca ngợi tình thương, lòng tốt, chịu đựng cuộc đời.
LÊ HUỲNH LÂMTừ “Vọng sông quê” đến “Mang” của Nhà xuất bản Trẻ, rồi “Gửi thiên thần” của Nhà xuất bản CAND và bây giờ là “Đồng hồ một kim” của Nhà xuất bản Văn Học” được gửi đến bạn đọc, Phan Trung Thành đã khẳng định được gương mặt thơ của thế hệ 7.X. Ở đây, số lượng tác phẩm không định hình nên một gương mặt thơ, mà chính những câu chữ đã vẽ lên chân dung một nhà thơ.
TIỂU VĂNGiữa tháng 11 năm 2008, tôi được dự một buổi hội thảo nói chuyện chuyên đề về sách tại Zen Café (phố Ngọc Hà). Đây là buổi nói chuyện của tác giả - dịch giả Lê Thị Hiệu, với bút danh thường gọi là Hiệu Constant, giới thiệu về tác phẩm đầu tay của chị - tiểu thuyết Côn trùng. Buổi nói chuyện nằm trong chương trình “Tôn vinh Văn hóa Đọc” do Công ty Truyền thông Hà Thế khởi xướng và tổ chức.
HÀ KHÁNH LINHHồng Nhu truyện ngắn, Hồng Nhu thơ… Lần đầu tiên nhìn thấy Hồng Nhu xuất hiện tiểu thuyết tôi thực lòng rất mừng. Tuy nhiên đọc gần hết hai chương đầu nỗi lo cứ cồm cộm lên trong tâm thức nhưng chính gần cuối chương II cái chất tiểu thuyết mới bắt đầu hé lộ ra, để rồi từ đó lôi cuốn người đọc cho đến hết truyện.
LÊ QUANG TƯCông trình Văn học Việt Nam thế kỷ X-XIX (những vấn đề lý luận và lịch sử)(1) được biên soạn bởi Trần Ngọc Vương (chủ biên), Trần Nho Thìn, Nguyễn Văn Thịnh, Trần Nghĩa, Đoàn Lê Giang, Kiều Thu Hoạch, Cao Tự Thanh..., do nhà xuất bản Giáo dục in năm 2007, dày 912 trang.
LÝ HOÀI XUÂN(Nhân đọc tập thơ “Mẹ!” của Văn Lợi – NXB Thuận Hoá, 2006)
TRẦN HUYỀN SÂMNhư con thú hoang ôm vết thương lòng đi tìm nơi trú ẩn, gương mặt người thiếu phụ mang nỗi buồn tiền kiếp - tự ngàn xưa: Người thiếu phụ có đôi mắt buồnĐi lang thang trong chiều mùa hạNỗi cô đơn lây sang cả đá...
MAI VĂN HOANNgười đời thì lập ngôn còn Nhụy Nguyên thì “lập thiền”. Thú thực tôi chưa hiểu hết dụng ý của Nhụy Nguyên khi đặt tên cho tập thơ đầu tay của mình là Lập thiền. Bản thân từ Hán Việt vốn ẩn chứa nhiều tầng nghĩa.
BỬU NAMI. Văn học Mêhicô ở thế kỷ XX, có lẽ được xem như một nền văn học năng động và sáng tạo nhất Châu Mỹ La tinh. Táo bạo trong những tìm tòi mới, linh hoạt uyển chuyển trong cách diễn tả, đa dạng phong phú trong cách sử dụng các cấp độ ngôn ngữ, sáng suốt trong cách chọn lựa đề tài, hình thức, ngôn ngữ: tiểu thuyết và truyện ngắn ở Mêhicô tạo được những không gian sáng tạo và đổi mới một cách tự do.
NGUYỄN TÝ51 bài thơ cùng 8 ca khúc được phổ thơ của Trần Hữu Lục vỏn vẹn 120 trang qua tập thơ “Vạn Xuân” (*) mới nhất của anh, người đọc đồng cảm cùng tác giả- một người con xứ Huế tha phương.
NGÔ MINHNhà xuất bản Văn nghệ vừa ấn hành tập ký “Phùng Quán- Ba phút sự thật”, tập hợp mười lăm bài viết, ký thấm đẫm chất nhân văn rất của cố nhà thơ nổi tiếng Phùng Quán.
NGUYỄN ĐÔNG HIẾUTrong cuộc đời làm xuất bản của mình, Phùng Quán là một nhà văn đã để lại cho tôi những ấn tượng mạnh mẽ, sâu sắc, khó quên.
PHẠM PHÚ PHONG Tập nhật ký Tây tiến viễn chinh (do Đặng Vương Hưng biên soạn và giới thiệu, Phạm Tiến Duật viết lời bạt, Nxb Hội Nhà văn, 2005) của liệt sĩ Trần Duy Chiến, bắt đầu viết từ ngày 7.10.1978, khi anh mới nhập ngũ, đến ngày 25.6.1980, trước khi anh hy sinh gần một tháng.
BỬU NAM giới thiệu1. Cuốn tiểu thuyết best - seller “Hồi ức của một Geisha” của nhà văn Arthur Golden vừa được dựng thành phim. Nhà văn Arthur Golden đã dành cả 40 năm cuộc đời mình tìm tư liệu về cuộc sống của những nàng Geisha ở Nhật Bản, để sáng tạo nên một cuốn tiểu thuyết Best - Seller giữ vị trí được bạn đọc thế giới yêu thích lâu dài trên danh mục những tiểu thuyết bán chạy nhất do báo New York Times bình chọn.
HOÀNG VŨ THUẬT(Đọc tập thơ Lệ Thuỷ mút mùa của Ngô Minh)Nói đến Ngô Minh là nói đến thế - giới - cát. Cát trong suy nghĩ của Ngô Minh như thứ ngôn ngữ minh triết về đời sống con người. Là vật chất, nhưng không giản đơn như mọi thứ vật chất. Cát có thể nóng như lửa, lại mềm mại dịu êm dưới chân người. Li ti từng hạt nhỏ, vậy mà bên nhau cát xây nên luỹ nên thành án ngữ dọc biển bờ Tổ quốc. Cát hiền lành trong sạch, khi giận giữ có thể biến thành những cơn bão khủng khiếp.
BÙI ĐỨC VINH(Nhân đọc tập thơ “RỖNG NGỰC” của Phan Huyền Thư, NXB Văn học 2005)