Đọc hai tập thơ của Trần Thu Hà

08:59 06/11/2009
HỒNG NHUĐó là “Tình bậc thang” (NXB Hội Nhà văn 2006) và “Mặt cắt” (NXB Hội Nhà văn 2007) của một nữ thi sĩ mà cho đến nay không nhiều người biết đến, ít nhất là trong làng thơ. Vì một lẽ rất giản đơn: chị mới xuất hiện trên thi đàn Việt Nam vài ba năm nay thôi.

Nhà văn Hồng Nhu

Xin được phép dẫn hơi xa một chút trước khi nhập đề. Tôi, người viết bài này, là người mới dám làm thơ khi đã ngoài ngũ thập, cụ thể là khi đã 53 tuổi đầu, tóc trên đầu đã bạc xóa. Bởi vì hắn ta quan niệm “Thơ là loại hình khó nhất trong các loại hình sáng tác văn chương” (Thơ chọn lọc - NXB Văn học, 2006). Ấy vậy nhưng thơ của hắn ta chẳng có gì mới mẻ, chỉ là “truyền thống” kiểu như “Ngẫu hứng về chiều”, “Nước mắt đàn ông”, “Rêu đá”… mà nhiều bạn bè đồng nghiệp đã từng nhắc tới. Người ta nhắc tới không phải vì thơ hay thơ lạ mà vì thơ có cảm xúc thật, có thể gọn vài chữ như thế.

Trần Thu Hà hơn hắn ta ít nhất hai điều: một là chị cho in tập thơ đầu tiên khi đã 56 tuổi; hai là các nhan đề sách thơ đã vượt ra khỏi lối cũ xưa mòn lâu nay, mở ra một lối nghĩ khác: Tình bậc thangMặt cắt. Tại sao lại như vậy? Để cố tình làm khác người, để câu khách chăng? Không, hoàn toàn không! Trần Thu Hà giãi bày lòng mình, nói toạc ra là những mối tình của chị như những bậc thang khốn khổ và đớn đau, đầy trắc trở và lắm gian truân. Chị chẻ mình ra thành những mặt cắt rồi ngẫm suy, và từ những lát cắt đó, chị tìm thấy những gì ở cuộc đời mình để sống tiếp, ngõ hầu làm cho nó tốt hơn, đẹp hơn.

Ba mươi lăm bài tập đầu, bốn mươi ba bài tập thứ hai trong hai năm liền nhau. Trong bảy mươi tám bài thơ đó - theo thẩm của riêng tôi - có ít nhất gần 50 bài có thể xếp vào loại hay và mới lạ. Hay chưa chắc đã mới, ngược lại mới chưa chắc đã hay, lẽ thường tình là vậy. Nhưng ở cây bút nữ này, tôi cho được cả hai như đã nói ở trên. Hãy đọc:

“Câu thơ bậc thang/ chùm ba chùm bảy/ Thơ thở ra khói/ Nói điều thật buồn/ Câu thơ khất thực/ Nói điều mơ xanh/ Còn em còn anh/ Chùm ba chùm bảy/ Tung lên trời xanh/ Ta là mây trắng/ Tung vào khoảng vắng/ Ta là hư vô/ Thuở còn ấu thơ/ Ta còn mắt biếc/ Bây giờ không anh/ Ta thành câm điếc”. (Thơ tình bậc thang)

Bất cứ nhà thơ nào cũng có mảng thơ tình của mình. Trần Thu Hà không nằm ngoài thông lệ đó. Nhưng, rõ ràng chị có cách diễn đạt riêng trên cơ sở khuynh hướng cảm xúc riêng và chủ đề chung. Tình bậc thang là tình gì, nó ra sao? Thử khảo sát vài ba trường hợp của vài nhà thơ nữ thành danh đã lâu: Nếu như Xuân Quỳnh là “Ánh trăng góc cạnh, cháy bỏng và dào dạt của vầng mặt trời giữa ngọ”; Lâm Thị Mỹ Dạ là “Ánh trăng xanh êm đềm, dịu mát khoảng nửa đêm về sáng” (Trần Đăng Khoa); thì ở đây, Trần Thu Hà mồ hôi mồ kê nhễ nhại, vật vã đến mức thở ra khói như đang leo ruộng bậc thang ở sườn đồi nơi vùng núi non trùng điệp. Trong trái tim yêu thương độc đáo ấy của Trần Thu Hà, chúng ta thấy sự đằm thắm, thổn thức… không có chỗ để len vào, những giọt nước mắt của sự nũng nịu, dỗi hờn… cũng không tìm được kẽ hở nào để rơi xuống.

“Tháng ba/ Thời gian/ Giọt nước mắt người dưng/ Em đừng bắc cầu vồng lên câu thơ cũ/… Em cởi áo đồng trinh/ Lau thời lam lũ…” (Biểu đồ thời gian)

Và đây:

“Đường gập ghềnh em bấm còi đa hệ/ Tình yêu/ Khai sinh cuộc sống/ Cơn đói anh mọc cánh vào em…” (Cược).

Táo bạo, quyết liệt, hơi có vẻ bất cần, nhưng không bất chấp. Bất chấp mới là điều không nên, mới đáng trách. Chiếc còi đa hệ của Trần Thu Hà thổi ré lên cơn đói anh, không phải chỉ để thỏa nỗi khao khát của cá nhân mình mà còn để khai sinh tình yêu của bao nhiêu người khác như chị và không như chị trên đời này, trong đó có chị đầy gập ghềnh và cheo leo trong cuộc sống riêng tư. Sinh ra trong một gia đình mà phần lớn anh chị em đều làm nghệ thuật. Anh trai là họa sĩ có “mác”, chị gái cũng là nghệ sĩ tạo hình nhà làm tranh cát nổi tiếng Trần Thị Thu, từng được huy chương vàng và danh hiệu “Bàn tay vàng” năm 2005 trên toàn quốc. Mười bảy tuổi vào đoàn văn công Nghệ An đánh đàn thập lục trong dàn nhạc, nghĩa là chẳng ai biết tới mỗi khi có một thành công của đoàn. Những năm đó ở đoàn văn công này, các chị Minh Ngọc, Thanh Xuân và Song Thao mới nổi tiếng không chỉ trong tỉnh mà cả nước. Mười năm sau, Trần Thu Hà rời đoàn, làm giáo viên dạy nhạc ở trường bồi dưỡng giáo viên huyện Nghĩa Đàn, một huyện vùng núi Nghệ An, cho đến lúc về hưu; nghĩa là cũng “vô danh” luôn. Chị đã từng nhiều năm nổi trôi khắp chốn, từ thành thị đến thôn quê, cả đến vùng núi non hiểm trở, nơi sào huyệt của “lâm tặc”, “thạch tặc”… để buôn bán vàng tấm đá đỏ… mưu sinh. Chị có một con trai duy nhất. Rất không may, cháu vướng vào cảnh nghiện ngập. Một người mẹ có con một mà lâm vào cảnh ấy, thử hỏi có ai không đau đớn dày vò, có ai còn thấy hạnh phúc thảnh thơi?

Trước khi đến với thơ, Trần Thu Hà đã sống lăn lộn và dữ dội như vậy. Song, chị là người phụ nữ như bao người phụ nữ khác trên thế gian, cũng sinh hoạt ăn uống, lấy chồng sinh con, cũng yêu đương, hạnh phúc, khổ đau, giận hờn… Trần Thu Hà khi yêu cũng có lần dại khờ, hoang phí và nhầm lẫn vân vân… như “Mũi tên bay không cần mai phục/ rơi/ rơi…” Cái khác của chị - nếu có thể nói - là chẳng giống một ai, chỉ riêng chị mới có, một nội lực tôi gọi là vô song, rất Trần Thu Hà: “Ngực rỉ máu sau mỗi lần va quệt/ Cánh rừng nguyên sinh nảy búp măng tự tình làm môi em biếc/ Gió lục soát đa tình mùa anh phê phê vết cắn…/ Em/ Lục giác đa chiều/ Môi biếc cùng anh” (Yêu)

Chín chữ kết thúc bài thơ chia làm ba câu, là một nỗi ngập ngừng đắm đuối thẳm sâu, đầy nữ tính và khơi gợi. Đồng thời, rất khó nhọc…!

Làng Lòi ở Yên Thành Nghệ An là một cái làng đặc biệt. Đó là nơi mà những chị em Thanh niên xung phong thời chống Mỹ đã quá lứa tập họp lại, thành một làng không chồng. Viết về cái làng này, đã có nhiều truyện nhiều thơ, nhiều bài báo trên các báo, tạp chí… nhiều năm qua. Nói chung - không biết có đúng không - các tác phẩm trên chỉ làm người đọc thấy thương tâm, thấy buồn thay cho họ. Nhưng đến Trần Thu Hà, chị khai thác khía cạnh đau đớn nhất, khát khao nhất - rất con người - của họ. Phải chăng đó là tính nhân văn cao cả mà chị đã phát hiện ra?

“Làng Lòi nằm úp thìa/ Chỏng chơ gió cát/ Chị nuốt khan/ Em cũng nuốt chay…

Cơn khát cuồng điên - cơn khát thịt da, cơn khát kinh niên/ Nỗi buồn rơi tự do em rên em gọi/ Anh trắng tinh, em cũng trắng tinh…”

Rồi điều gì đến tất phải đến. Hiện thực cuộc sống mà! “Làng Lòi nằm úp thìa/ soi gương soi những đứa trẻ không cha/ Hơ hớ trắng/ Hơ hớ vầng trăng bóc vỏ/ Làng Lòi trở dạ/ Làng Lòi như mơ” (Làng Lòi).

Sex đấy thôi. Thật sự Sex! Nhưng không hề thấy tục. Chỉ thấy đẹp và cao sang!

Nếu như tập thơ đầu “Tình bậc thang”, nói như nhà văn Nguyễn Quang Hà là “Những câu thơ đi tìm mình” (Lời tựa) thì tập thơ tiếp “Mặt cắt” là sự thể hiện mình, sự chiêm nghiệm mình. Trần Thu Hà không lập ngôn như một số nhà thơ đàn anh đàn chị; chị chỉ diễn ngôn và lập ý theo cái cách của riêng mình, cái cách mà nhà thơ Thạch Quỳ đã nói: “Ở tập thơ này, cái mới đã tìm ra chữ của nó.”

Chị khá công phu trong việc làm nổi bật sắc màu riêng biệt những chi tiết cựa quậy của cuộc sống thời hiện đại đang diễn ra; mà mới nhìn qua tưởng chừng như rối loạn, xô bồ, vô định hướng. Ấy là đóng góp nghệ thuật bất ngờ và đáng giá của chị - tôi nghĩ. Trong số lượng hàng năm của thơ đại trà tứ xứ hiện nay ở nước ta, có biết bao là cái tên trên các nhan đề tập thơ xuất hiện khắp nơi; và than ôi, chúng tan biến đi đâu trong dòng đời… vô tận! Trần Thu Hà là một trong số hiếm hoi giữ được người đọc thơ vốn cũng hiếm hoi và khó tính hiện nay. Chị trải đời, có thể gọi được là “già đời” - mà vẫn hồn hậu, trẻ trung đến lạ! “Linh hồn vỡ/ Buồn như đá ngủ/ Cơn sốt ký sinh/ Khuôn mặt - tấm gia huy tháng năm lồng ghép/… Em cười/ Đá nở hoa…” (Hoa đá).

Chị vẽ chân dung mình: “Thiếu phụ/ Giấu nụ cười sau chùm chìa khóa/… Tiếng thức hồi xuân/ Cơn mưa lãng đãng rơi/ Điệp khúc biến tấu trên các vì sao, những nụ hôn ru nhau bùng cháy”

Chưa ai tự ký họa mình - dĩ nhiên là ký họa nội tâm - khơi mở và thâm thúy như Trần Thu Hà: “Ác phụ râu xanh hờn ghen với em đang độ mùa thai nghén/ Con mắt mọc dọc giữa trái yêu không giết nổi sự đoan trang/ Của người đàn bà đa cảm…/ Mùa xuân đánh ghen với em”. (Ký họa chân dung)

Đó là sự tự thể hiện mình khá lạ lùng mà chân thực của người thơ. Mặt khác, người đàn bà ngót sáu mươi nhưng còn rất trẻ đẹp này chiêm nghiệm cái gì, điều gì? Tuổi tác đâu còn ít để mà lai láng, mà tuôn trào? “Trong trò chơi ú tim/ Tôi là người thắng cuộc/ Trò chơi vừa kết thúc/ Tôi chẳng tìm thấy tôi/ Ngày tháng đã xa xôi/ Chưa dễ qua khôn dại/ Bất chợt ở cuối đời/ Trò ú tim lập lại” (Ú tim)

Và đây nữa:

“Còn một chút tình/ Xin ngâm vào bình rượu đắng/ Còn một chút tiền/ Xin ném vào cõi hư vô/ Còn một chút tài/ Xin một lần thử sức/ Còn chút sắc tàn/ Xin ép hong khô” (Không đề)

Tôi chủ ý chép y nguyên hai bài thơ ngắn của Trần Thu Hà trên để kết thúc bài viết nhỏ này. Nhỏ, vậy mà tôi đã loay hoay gần nửa năm nay mới có.
Thơ hay chỉ đọc và cảm. Khó viết, khó bình về nó.

Huế tháng 5/2009
H.N
(248/10-09)




 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • ĐỖ NGỌC YÊN Phế đô là một trong những cuốn tiểu thuyết đương đại của Trung Quốc,  do Tạp chí Tháng Mười xuất bản từ năm 1993. Ngay sau đó nó đã có số bản in đạt vào loại kỷ lục, trên 1. 000. 000 bản tiếng Trung Quốc.

  • VƯƠNG HỒNG HOAN

    "Trăng Thương Bạc" là tập thơ của 47 hội viên của câu lạc bộ Hương Ngự do Nhà xuất bản Thuận Hóa in kỷ niệm lần thứ 25 ngày giải phóng Huế.

  • NGUYỄN ĐĂNG MẠNHNguyễn Khải ở trong Nam, ít khi tôi được gặp. Tôi rất thích nói chuyện với anh. Đúng ra là tôi thích nghe anh nói.

  • PHẠM XUÂN HÙNG(Về cuốn Đọc văn - Tiểu luận - Phê bình của Phạm Phú Phong, NXB Thuận Hóa, 2008)

  • HÀ VĂN LƯỠNGChingiz Aitmatốp thuộc trong số các nhà văn lớn được độc giả nhiều nước trên thế giới biết đến. Tác phẩm của ông thể hiện những vấn đề đạo đức nhân sinh, nhân loại. Ngoài việc sử dụng các đặc điểm thời gian, không gian nghệ thuật, cấu trúc, giọng điệu tác phẩm... nhà văn còn đưa huyền thoại, truyền thuyết vào tác phẩm như là một thi pháp biểu hiện mang tính đặc trưng của ông.

  • TÔ NHUẬN VỸ(Nhân đọc một số bài tranh luận về cuốn THƠ ĐẾN TỪ ĐÂU)

  • NGUYỄN KHẮC PHÊBộ trường thiên tiểu thuyết “Sông Côn mùa lũ”(*) của nhà văn Nguyễn Mộng Giác, được bạn đọc chú ý trước hết vì bề dày 4 tập 2000 trang với nhân vật trung tâm là người anh hùng dân tộc Nguyễn Huệ; sau nữa, đây là tác phẩm văn học dày dặn nhất của một Việt kiều được xuất bản trong nước.

  • ĐỖ NGỌC YÊN…Thơ Hoàng Trần Cương là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa những chất liệu, hình ảnh và ngôn ngữ của đời sống, với sự đào sâu những suy tư, khát vọng sống của con người và một vùng quê mà anh đã nặng nghĩa sinh thành...

  • THỦY THANHCơn đại hồng thủy đầu tháng 11 năm 1999 được coi như "bản tổng kết thủy tặc" đầy bi tráng của thiên nhiên trong thế kỷ 20 đối với mảnh đất Thừa Thiên Huế. Nó đã gây ra nỗi kinh hoàng, đau thương, mất mát to lớn và cũng để lại không ít những hệ lụy nặng nề cho con người ở nơi đây. Và cũng chính nó - cơn lũ chưa từng có này - đã đi vào lịch sử.

  • BẾ KIẾN QUỐCNăm ấy, vào quãng mùa hè 1982, khi đang trực Ban văn xuôi của báo Văn Nghệ, tôi nhận được một bản thảo truyện ngắn kèm theo lời nhắn: “ Cái truyện này rất quan trọng đối với tôi. Rất mong được tòa soạn đọc kỹ và cho ý kiến. Mấy hôm nữa tôi sẽ quay lại”.

  • THÁI DOÃN HIỂUNgô Văn Phú là thi sĩ của đồng quê. Anh có thể viết nhiều đề tài như xây dựng, chiến tranh, lịch sử, tình yêu..., nhưng như lá rụng về cội, ngược về nguồn, Ngô Văn Phú trở lại nơi làng quê yêu dấu với một tình yêu bẩm sinh, yêu đến tận cùng gốc rễ như Nêruđa đã viết.

  • MAI VĂN HOANTrong số bạn bè cùng lứa thì Ngô Minh bước vào làng thơ muộn màng hơn cả. Nếu Lâm Thị Mỹ Dạ được chú ý ngay khi còn ngồi trên nghế nhà trường, Hải Kỳ có thơ in trên báo Văn nghệ những năm 69,70 thì Ngô Minh vẫn chưa hề có ai hay biết.

  • HOÀNG VŨ THUẬTCó những bài thơ đọc lên và bắt gặp ngay cái đẹp trong từng câu chữ. Lại có những bài thơ đọc đi đọc lại thấy hay mà không dễ gì tìm thấy ngay được. Nó như vẻ đẹp của người con gái có duyên thằm. Cái đẹp thầm kín, ẩn náu.

  • HOÀNG VŨ THUẬTTrong một bài thơ viết trên giường bệnh, trước khi mất vài hôm Thanh Hải tâm sự:     Ta làm con chim hót     Ta làm một cành hoa                                   Ta nhập trong hòa ca                                   Một nốt trầm xao xuyến                                          (Mùa xuân nho nhỏ)

  • Tiểu thuyết "Vạn Xuân" (Dix mille Printemps) của nữ văn sĩ Pháp Yveline Féray viết về cuộc đời Nguyễn Trãi và cuộc khởi nghĩa Lam Sơn dày trên 1200 trang, do Nguyễn Khắc Dương và một số cộng tác viên dịch, do Nhà xuất bản Văn học in năm 1997 đã được độc giả Việt Nam đón nhận nồng nhiệt.

  • PHAN VĂN CÁCTuy Lí Vương Nguyễn Miên Trinh (1820- 1897) là con thứ 11 vua Minh Mệnh triều Nguyễn, tự là Khôn Chương, lại có tự là Quý Trọng, hiệu là Tĩnh Phố (tên ngôi vườn ông ở) lại có hiệu là Vi Dã. Tuy Lí Vương là tước phong cuối cùng của ông (trước đó từng có tước Tuy Quốc công năm 19 tuổi).

  • HOÀNG CẦM(Lời Bạt cho tập thơ ĐÓA TẦM XUÂN của Trịnh Thanh Sơn - Nhà Xuất bản Văn học 1999)

  • NGUYỄN KHẮC PHÊTác phẩm đầu tay của tôi - tập ký sự “Vì sự sống con đường” (NXB Thanh Niên, Hà Nội, 1968) viết về những đồng đội của tôi trong cuộc chiến đấu anh hùng bảo vệ tuyến đường 12A lên đèo Mụ Dạ, một đoạn đường trọng yếu trong hệ thống đường Hồ Chí Minh giai đoạn 1965-1966, được xuất bản năm 1968, nhưng bài viết đầu tiên của tôi được in trên báo chí khi tôi vừa tròn 20 tuổi và đang học tại Hà Nội.

  • Thanh Hải tên thật là Phạm Bá Ngoãn. Anh sinh ngày 4 tháng 11 năm 1930, quê ở xã Phong Bình, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế. Nhà thơ mất ngày 15 tháng 12 năm 1980, tại thành phố Huế.

  • LÊ VĂN DƯƠNG1. Quý II năm 2005, Nhà xuất bản Văn nghệ thành phố Hồ Chí Minh phát hành, nói đúng ra là tái bản lần thứ nhất cuốn Tản mạn nhớ và quên của Nguyên Ngọc. Cuốn sách dày 560 trang, tập hợp 15 bài viết của tác giả ở những thời điểm khác nhau nhưng đa phần là vào những năm 90 của thế kỷ XX và một vài năm mở đầu thế kỷ XXI.