Đọc “Núi bà đen” của Larry Heinemann và “Cốm non” của Lâm Thị Mỹ Dạ.

16:09 13/04/2009
FRED MARCHANTCó những vết thương chẳng thể nào lành lặn và có những nỗi đau chẳng bao giờ mất đi. Kinh nghiệm nhân loại khuyên ta không nên “chấp nhận” hay “bỏ đi” hay “vượt lên” chúng. Với một con người mà tâm hồn thương tổn vì đã làm cho người khác khổ đau hay chứng kiến nhiều nỗi đau khổ thì những câu nói như thế hoàn toàn vô nghĩa.

Larry Heinemann cựu chiến binh và là nhà văn đã đoạt giải thưởng quốc gia về sách cho tác phẩm Paco,s Story. Trong tác phẩm Núi Bà Đen: Chuyến trở lại Việt Nam anh đã viết về kỷ niệm chuyến trở lại đất nước này khoảng đầu những năm 90.

Lâm Thị Mỹ Dạ là một nhà thơ Việt Nam tiêu biểu cùng thời đi ra từ cuộc kháng chiến chống Mỹ. Trong tập thơ Cốm non chị đã tập hợp những bài thơ viết trong suốt 30 năm.

Đây là hai cuốn sách do hai người viết rất khác nhau, những câu chuyện sôi động quyết liệt khác hẳn nhau, nếu đọc hai tác phẩm cùng lúc thì chúng chẳng liên quan gì nhau cả ngoại trừ cách nhìn cơ bản giống nhau. Cả hai cuốn sách ghi dấu một nỗi buồn khủng khiếp, nỗi buồn hiện diện lên từng con chữ. Qua đó có thể tham khảo về những năm tháng chiến tranh, sự quan tâm thật sự của cả hai là những năm tháng sau khi chiến tranh kết thúc. Chủ đề mà họ chia sẻ là hậu quả lâu dài của chiến tranh.

Nếu xem xét điều ấy chỉ trên cách diễn đạt, người ta có thể ngạc nhiên tự hỏi đâu là nỗi buồn trong câu chuyện của Heinemann. Anh có giọng văn vui nhộn hoạt bát. Đó cũng là giọng văn của người lính thường hoài nghi, dễ hoà đồng ham vui đến việc gian lận “tấm phiếu đục lỗ tù đày chung thân”. Đó là người tin vào cuộc chiến, đường lối quân sự nhưng lơ là nhiệm vụ. Cách kể chuyện của Heinemann lại chẳng có chút gì lưu đày cả, cũng không kể thẳng cả một câu chuyện hoặc cách kể đúng như quy ước. Cách dẫn chuyện có kết cấu phân biệt và hầu như không theo thứ tự thời gian, thường lan man và đầy hoan hỉ. Heinemann nhẩn nha kể lể. Tuy nhiên anh cũng hướng cảm xúc của mình về phía cuối câu chuyện - chuyến về thăm lại Núi Bà Đen tại Việt Nam. Đây là ngọn núi nhô lên giữa đồng bằng tỉnh Tây Ninh, nơi Heinemann thuở đang thi hành nhiệm vụ đã có những trận đánh vô cùng đẫm máu.

Núi Bà Đen - là tên một người, Heinemann kể cho chúng ta nghe về nhiều huyền thoại liên quan đến nó. Một trong những chuyện xưa đó là Bà Đen có chồng chết trận, nên bà quyết lên núi để chết theo chồng. Nhưng câu chuyện Heinemann thích nhất câu chuyện Bà Đen chờ đợi người chồng bị bắt ra trận. Anh ta không trở về và Bà Đen đã than khóc cho đến chết. Linh hồn của bà hoá thành núi Bà Đen. Heinemann gọi đó là “cõi quyền năng”. Nơi cung cấp năng lượng tâm linh. Đối xứng với nó là bức tường đá đen rộng lớn nơi Đài tưởng niệm cựu chiến binh Mỹ tham chiến tại Việt Nam Washington, nơi mà Heinemann cho là “nỗi bi thương mãi mãi cuốn hút”. Heinemann nói rằng khi anh từ cuộc chiến trở về “anh cảm thấy buồn bã và già đi, tâm hồn cạn kiệt, hổ thẹn và hàm ơn, một nỗi buồn khác thường... Nằm dưới đáy sâu nỗi thống khổ không sao diễn tả được”.

Trở về nhà, nhìn quanh anh thấy như không phải tất cả trong anh đã trở về, Tâm hồn của anh thực sự không nhà. Đoạn cuối hồi ký, sau khi leo lên núi Bà Đen, anh có một cảm giác lạ kỳ là chính cái nơi có quá nhiều đau khổ này mới làm cho anh thấy “Tôi đã về nhà, đây chính là nhà”.

Cõi tâm linh do núi Bà Đen ám vào Heinemann lại rất quen thuộc với Lâm Thị Mỹ Dạ, nhà thơ nữ sinh năm 1949, người từ cuộc chiến nhưng ở phía bên kia, hiện đang sống tại Huế. Cốm non là tuyển thơ từ nhiều tập thơ, được nhà thơ Mỹ Martha Collins Thuý Đình - Việt kiều đồng dịch rất cẩn thận và sắc sảo. Cốm non không chỉ giới thiệu cho người đọc Mỹ về kinh nghiệm chiến đấu của phụ nữ Việt Nam trên 30 năm qua cách nhìn của một nhà thơ mà còn nói về hậu quả lâu dài của chiến tranh. Hơn thế, Dạ còn thường quan tâm bênh vực quyền lợi của phụ nữ trẻ. Có những bài thơ không dễ gì yên lòng với một khoảng lặng hay tự náu mình như chị mong muốn. Có những bài thơ in dấu sự tưởng tượng phong phú, mối quan hệ huyền ảo với cảnh sắc Việt Nam, với hoa cây, núi và sông. Thơ của chị thể hiện thật tuyệt bằng nhiều cách. Chạy xuyên suốt qua nguồn mạch u buồn, dường như nhiều thứ còn ở lại mãi trong tâm hồn nhà thơ này. Dường như chị muốn trong hầu hết các bài thơ cố tìm ra hay tạo ra những hình ảnh hay ẩn dụ thích hợp với nỗi buồn của mình ngay cả khi chị chẳng biết gọi nó là gì.

Hoặc đúng hơn là gọi tên nó một cách gián tiếp hay một nửa, nỗi buồn riêng làm cho lịch sử Việt Nam dường như quá đỗi riêng tư. Chị nhắc đến nó như một nỗi buồn kỳ lạ. Trong bài thơ “Cây mận của em” chị viết “Em chẳng là cây mận của ai. Em là cây mận của em. Bám rễ vào đất đai thẳm sâu là nỗi buồn. Và trời xanh là lòng kiêu hãnh”.

Nỗi buồn tự nó biểu lộ trong thơ dường như một cái gì vừa tan biến đi vừa xoá nhòa đi và không có gì. Dạ viết trong một bài thơ rằng chị tan biến mình trong dòng sông Hương, rằng chị muốn cứ như thế để tâm hồn chị mãi mãi được cuốn đi. Một bài thơ trong tuyển tập, Dạ nhớ lại cảm giác khi được ăn cốm non thời thơ ấu “Cốm non xanh muốn trào nước mắt/. Thơ ngây ơi phút chốc đã không còn”. Đấy chính là cái khoảnh khắc sự vật biến mất mà trí tưởng tượng của chị bắt được. Trong bài “Mưa” chị so sánh cơn mưa như một cuộc đời “không ngừng, tan ra, biến mất”.

Những bài thơ có thể không theo tuần tự năm tháng, như lời của dịch giả Martha Collins viết trong bài giới thiệu, nhiều bài thơ đã chạm đến giới hạn “vai trò truyền thống của phụ nữ”. Tuy nhiên mối bận lòng về việc xoá nhoà, tan biến dường như là cội rễ trong chiêm nghiệm của Dạ về chiến tranh. Có lẽ bài thơ nổi tiếng nhất của Dạ là bài Khoảng trời hố bom”. Đây là bài thơ nói về một đồng chí của Dạ, một cô gái đã bị nổ tung do bom thả xuống đường Hồ Chí Minh. Huyền thoại kể về cô gái trẻ hút bom về phía mình để bảo vệ đoàn quân. Dạ thán phục lòng hy sinh đó và cho rằng linh hồn người lính mãi mãi hoà quyện vào cảnh sắc Việt Nam và trong trái tim của người Việt. Tuy nhiên, có một điều trong bài thơ này dường như ngay lúc hy sinh, bản năng cũng có chút hoảng sợ nhưng đó chính là điều cao quý. Ý thức đời người thoáng qua rồi biến mất và luôn ở lại với Dạ. Thơ của chị là bản chúc thư của người đàn bà về những hiểm nguy mà họ đối mặt; Mối hiểm nguy bị xoá nhoà, biến mất rồi tan vào đất. Đó là cốt lõi của ẩn dụ của Dạ đối với nỗi buồn không tên.

Một cách diễn giải khác, đó là huyền thoại núi Bà Đen ngấm vào thi ca của Lâm Thị Mỹ Dạ. Ngọn núi này có nỗi buồn bay vượt lên mình. Lary Heinemann và Lâm Thị Mỹ Dạ biết ngọn núi này ở đâu và hai qưyển sách quý giá này sẽ cho chúng ta lời chỉ dẫn.

ĐINH THU chuyển ngữ
(200/10-05)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • Trong sự nghiệp nghiên cứu văn học của PGS.TS. Võ Văn Nhơn, văn chương phương Nam giữ vị trí trung tâm và nổi bật.

  • “Mỗi khi sáng tác tiểu thuyết, tôi chịu đựng những câu hỏi, tôi sống trong chúng”1. Hành trình sáng tác của Han Kang là sự kết nối những câu hỏi và là “suy ngẫm về những câu hỏi”.

  • Hồ Minh Tâm sinh năm 1966 tại Quảng Bình. Tốt nghiệp Đại học Bách khoa Đà Nẵng năm 1990, Đại học Kiến trúc Thành phố Hồ Chí Minh năm 1998; làm việc trong lĩnh vực xây dựng dân dụng và công nghiệp, tư vấn thiết kế, quản lý đầu tư xây dựng cơ bản.

  • Trong một bài viết mấy năm trước, tôi dẫn câu “số phận chứa một phần lịch sử” và tưởng rằng sự đúc kết rất đáng suy ngẫm này là của nhà văn - đạo diễn Đặng Nhật Minh. Hóa ra tôi đã nhầm.

  • Đặng Nguyệt Anh là một trong rất ít nhà thơ nữ được vinh dự sống và viết ở chiến trường trong những năm kháng chiến chống Mỹ ác liệt.

  • Trình làng một tập thơ vào thời điểm đương đại luôn tiềm chứa nhiều nguy cơ, và người viết hẳn nhiên phải luôn là một kẻ dấn thân dũng cảm. Nhiều năm qua, phải thú thực là tôi đọc không nhiều thơ, dù bản thân có làm thơ và nhiều người vẫn gọi tôi như một nhà thơ đích thực.

  • Chúng ta đ ề u đã bi ết Hàn Mặc Tử n ằ m ở nhà thương Qu y Hoà từ 21- 9 -1940 đ ế n 11 - 11 -1940 thì từ tr ầ n. Nhưng có một đi ề u dám chắc ai cũng băn khoăn là su ố t trong 51 ngày đ êm đó, thi sĩ có làm bài thơ nào không?

  • Công chúng yêu sân khấu cả nước ngưỡng mộ Nghệ sĩ Nhân dân Ngọc Bình với tư cách là một diễn viên tài năng, một đạo diễn gạo cội, một lãnh đạo ngành sân khấu năng nổ, nhưng ít ai biết anh còn là một tác giả sáng tác kịch bản văn học cho nhiều thể loại sân khấu, mà chủ yếu là kịch nói và ca kịch...

  • Kể từ khi ca khúc “Có một dòng sông” được công bố lần đầu tiên qua loa truyền thanh xã Hương Chữ, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế do chính tác giả cầm guitar thùng trình bày khi vừa viết xong, đến nay vừa tròn 40 năm, nhưng sức lay động của bài ca vẫn còn ngân vang mãi trong nhiều thế hệ người nghe được sinh ra và lớn lên bên dòng sông ấy, bất chấp dòng chảy thời gian.

  • Mẹ trong mỗi chúng ta là hình ảnh đầy thiêng liêng và diệu kỳ. Mẹ! Có nghĩa là duy nhất/ Một bầu trời/ Một mặt đất/ Một vầng trăng/ Mẹ không sống đủ trăm năm/ Nhưng đã cho con dư dả nụ cười tiếng hát (Ngày xưa có mẹ - Thanh Nguyên). 

  • (Đọc “Chuyện kể về món hàng quý giá nhất đời” của Jean-Claude Grumberg, Nxb. Văn học 2023 - Dịch giả: Hoàng Anh).

  • Nhìn thấu mà không nói thấu là đỉnh cao cảnh giới xử thế trí tuệ. Nói theo thuật ngữ Phật học, cái trí nói chung có ba phần hợp thành là trí thức, trí tuệ và trí huệ.

  • Lê Minh Phong (sinh 1985) vốn cùng quê với Huy Cận, nhưng xa hơn về phía núi. Cả hai đều có một tâm hồn cổ sơ. Nét hoang dã của vùng đất ấy đã tạo ra ngọn Lửa thiêng trong thơ Huy Cận, tạo nên những huyền thoại, cổ tích trong văn xuôi Lê Minh Phong.

  • (Đọc tập tiểu luận “Ngắn dần đều” của Hoàng Đăng Khoa, Nxb. Đà Nẵng và Book Hunter, 2024)

  • YẾN THANH

    Tôi luôn quan niệm rằng, tiểu thuyết là một bản tự thuật chân thật về tâm hồn người nghệ sĩ. Thơ ca có thể là tiếng nói trực tiếp, chân thành của cảm xúc, song những giới hạn của thể loại về nhạc tính, vần điệu, câu từ, khổ thơ, số chữ trong từng câu… luôn ngăn trở tác giả vẽ nên bức chân dung đầy đủ, hoàn thiện về tâm hồn của mình.

  • Tôi luôn quan niệm rằng, tiểu thuyết là một bản tự thuật chân thật về tâm hồn người nghệ sĩ. Thơ ca có thể là tiếng nói trực tiếp, chân thành của cảm xúc, song những giới hạn của thể loại về nhạc tính, vần điệu, câu từ, khổ thơ, số chữ trong từng câu… luôn ngăn trở tác giả vẽ nên bức chân dung đầy đủ, hoàn thiện về tâm hồn của mình.

  • VÕ QUỐC VIỆT (Đọc “Đất Việt trời Nam liệt truyện” của Trần Bảo Định)

  • Tập thơ Vực trắng, Nxb. Hội Nhà văn quý 2/2024 của nhà thơ, nhà báo Lữ Mai gồm 55 bài thơ, được sắp xếp thành 6 phần: “Từ núi”, “Đi lạc”, “Nói bằng gai sắc”, “Trở về chạng vạng”, “Gửi Huế”, “Cánh tàn bừng giấc”.

  • HỒ THẾ HÀ

    Lê Quang Sinh sáng tác thơ và trở thành nhà thơ được độc giả cả nước yêu quý và đón nhận nồng nhiệt. Nhưng ít ai biết Lê Quang Sinh là nhà phê bình thơ có uy tín với mỹ cảm tiếp nhận bất ngờ qua từng trang viết đồng sáng tạo tài hoa của anh.

  • PHONG LÊ

    Hải Triều, đó là một tên tuổi quan trọng trong sinh hoạt văn chương - học thuật thời kỳ 1930 - 1945. Ông vừa giống vừa khác với thế hệ những đồng nghiệp cùng thời, nếu xét trên phạm vi các mối quan tâm về học thuật.