Đọc “Nụ cười Áp-xara”

10:24 28/12/2010
TRƯỜNG KÝ(“Nụ cười Áp-xara”: Truyện ký của Hà Khánh Linh, Nxb Văn nghệ thành phố Hồ Chí Minh, 1983)

Nhà văn Hà Khánh Linh - Ảnh: Internet


H
à Khánh Linh vừa mới cho ra mắt bạn đọc tập truyện và ký “Nụ cười Áp-xara”. Đó là một tập hợp bao gồm cả thảy sáu tiểu phẩm truyện và ký. Trong số ba tiểu phẩm ký có một bài viết dưới dạng một bức thư và hai bài kia là bút ký. Số còn lại gồm hai truyện ngắn và một truyện ký. Đây là tập truyện, ký lấy đề tài từ nước bạn Cam-pu-chia. Linh hồn của tập truyện và ký xung quanh hai chủ đề nổi bật và đáng quan tâm: lên án sự hủy diệt của bọn đao phủ Pôn Pốt và khẳng định sức mạnh của mối tình đoàn kết chiến đấu của nhân dân hai nước Việt Nam - Cam-pu-chia cùng với sự đổi thay của đất nước bạn sau ngày được giải phóng khỏi ách thống trị tàn bạo của bọn diệt chủng.

Với nạn diệt chủng này, bọn Pôn Pốt đã “giết chết hơn ba triệu và đày đọa hơn bốn triệu dân Cam-pu-chia lao động khổ sai trên đồng ruộng Cam-pu-chia bạt ngàn và giam hãm họ trong “cơn đói thắt ruột” với “ngày hai bữa cháo lỏng”. Và chúng cũng đã “tàn sát hàng chục vạn trí thức ở các hố chôn người tập trung, ở các nhà tù trên toàn lãnh thổ Cam-pu-chia … Hàng loạt giáo sư tiến sĩ đã chết dưới lưỡi cuốc, lưỡi búa của bọn Pôn Pốt man rợ” (Bức thư từ Xiêm Riệp). Tội ác của chúng đất không dung trời không tha. Các vụ tàn sát dã man của chúng ở Tusleng, ở Phum Tha Mây, ở Spin v.v… vẫn còn những nhân chứng và tang chứng cụ thể. Điều đó được tác giả trình bày khá rõ ràng và xúc động trong tác phẩm của mình (Bông sứ trắng, Thằng Ểnh ương).

Nhưng có thể nói trong tập truyện và ký này, truyện ngắn “Nụ cười Áp-xara” là truyện nổi bật và hay hơn cả. Truyện được viết nhẹ nhàng, thánh thoát mà sâu sắc, hồn nhiên. Qua truyện, tác giả đã khẳng định được lý tưởng và niềm hy vọng tràn trề của nhân dân Cam-pu-chia do cuộc sống mới, cuộc sống cách mạng đem lại. Bằng biện pháp hư cấu nghệ thuật, “Nụ cười Áp-xara” là một hình tượng văn học khẳng định sự hồi sinh của đất nước Cam-pu-chia anh em.

Và Hà Khánh Linh cũng đã giành nhiều tình cảm đặc biệt của mình cho việc miêu tả, thể hiện cuộc sống hồi sinh của nhân dân Cam-pu-chia sau ngày giải phóng.

Trên đất nước mà ngày hôm qua nhà tù đã thay cho trường học, búa rìu của bọn Pôn Pốt đã thay cho công lý, tự do; sự tiêu điều, đổ nát và bất hạnh đã thay cho niềm vui và niềm hy vọng… thì ngày hôm nay, các em bé, líu lo cắp sách đến trường, người công dân đang sung sướng được làm chủ non sông đất nước. Tự tay mình, họ đã cầm lá phiếu bầu cử quốc hội để xây dựng một chính quyền dân chủ nhân dân hợp hiến. Đâu đâu cũng tràn ngập tiếng cười, thể hiện một cuộc sống hồi sinh trở lại (Bức thư từ Xiêm Riệp). Nhiều nhà máy trước đây bị đóng cửa với vẻ tiêu điều, xơ xác nay lại được khôi phục và hoạt động trở lại như Nhà máy dệt Sisôvát ở Phnôm-pênh. Ở đó người công nhân bình thường như chị Xóc-sa-rươn đã đem hết nhiệt tình của mình để xây dựng lại cuộc sống. Họ đã tự mình quản lý lấy tất cả những hoạt động của nhà máy một cách phấn khởi và tự tin (Bông sứ trắng). Ở nông thôn, cuộc sống cũng có nhiều đổi thay đáng kể. Những làng xóm trên bờ sông Xiêm Riệp xuất hiện cuộc sống náo nức, tưng bừng xóm bên kia sông)…

Đó là những thực tế sinh động của sự đổi mới trên đất nước Cam-pu-chia sau mấy năm giải phóng. Ngòi bút của Hà Khánh Linh đã ghi nhận được và chuyển đến cho chúng ta niềm hân hoan và niềm hy vọng của cả một dân tộc mà bấy lâu nay chúng ta đang tin yêu và đang từng ngày quan tâm theo dõi. Đó là những thành công của tác giả tập truyện và ký này.

Và qua tác phẩm người ta cũng thấy tác giả có sở trường về truyện ngắn hơn là về ký. Truyện của chị viết mạch lạc, có những đoạn dẫn dắt khá uyển chuyển, nội tâm, tính cách nhân vật được bộc lộ khá rõ (Nụ cười Áp-xara). Các tình tiết trong truyện tuy chưa thật hấp dẫn, lôi cuốn nhưng cũng đã thể hiện được những nét dí dỏm, xúc động (Thằng Ểnh ương).

Nhưng các bài ký của chị thì mới dừng lại ở mức độ “làng nhàng”, lắm chỗ còn rườm rà và trùng lặp. Cách dẫn dắt về của tác giả còn quá dài dòng. Chẳng hạn, trong “Bông sứ trắng” (bút ký) giữa sự chết chóc, chị cho xuất hiện một bông sứ trắng. Nếu biết dừng lại đúng lúc và miêu tả vừa phải thì rất hay. Nó thể hiện một tương lai, một hy vọng tốt đẹp của đất nước Chùa Tháp. Nhưng chị lại kéo dài nó một cách tản mạn. Từ bông sứ trắng đó, chị liên tưởng đến các loại sứ, rồi nói đến công dụng của các loại sứ, tên khoa học của loại sứ là gì. Và từ bông sứ chịu nắng, chịu mưa, chị bắt sang chuyện cấy cày, trồng lúa khi mùa mưa đến! Cũng từ đó, chị lại kể về công tác thủy lợi từ đời vua Giata Vácman II đến đời vua Giata Vácman VII, rồi chuyện Thái Lan xa xưa đã sang xâm lược Cam-pu-chia để cướp vàng ngọc và bắt dân Khơme về làm nô lệ v.v… và v.v…

Những đoạn dài dòng và không cần thiết như vậy làm cho người đọc sốt ruột và tiếc công của chị. Đáng lẽ chị cắt đi bớt thì số trang của cuốn sách tuy có giảm bớt về độ dày nhưng “trọng lượng”, “sức nặng” trong tác phẩm của chị lại được tăng lên và sẽ gây cho người đọc sự thích thú và những ấn tượng tốt đẹp.

Tóm lại, với tập truyện và ký “Nụ cười Áp-xara”, Hà Khánh Linh đã có công góp thêm một tiếng nói, hay một “nhát xẻng” để chôn vùi chế độ thây ma Pôn Pốt và khẳng định sự vươn lên, niềm kiêu hãnh của một dân tộc đã “rũ bùn đứng dậy sáng lòa” (Nguyễn Đình Thi). Có được như vậy chính là nhờ sức mạnh đoàn kết chiến đấu của hai dân tộc anh em Việt Nam - Cam-pu-chia tạo nên. Sự xuất hiện tác phẩm của chị như vậy ít nhiều cũng tỏ ra có sự bổ ích.

25-5-1984.
T.K
(10/12-84)





Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • TRẦN HIỆPTừ một nhà giáo, theo tiếng gọi “chống Mỹ , cứu nước”, Nguyễn Quang Hà lên đường ra trận, liên tục “bám trụ” chiến trường Thừa Thiên - Huế. Năm 1975 anh bị thương phải ra Bắc dưỡng bệnh và dự lớp bồi dưỡng viết văn của Hội Nhà văn Việt Nam ở Quảng Bá. Sau đó anh trở lại Thừa Thiên - Huế chiến đấu và công tác cho đến bây giờ. Cũng vì thế, hầu như đa phần sáng tác của anh dù là thơ, ký hay truyện đều viết về vùng đất này.

  • HOÀNG THỊ THU THỦY1. “Ngày khai trường áo lụa gió thu bay” không chỉ có trong “Mối tình đầu” của nhà thơ Đỗ Trung Quân, mà niềm háo hức, tươi xanh, mong đợi có cả trong bài thơ “Mỗi ngày” của thầy giáo Hoàng Ngọc Quý.

  • TRẦN ĐÌNH SỬHoàng Ngọc Hiến là nhà giáo, nhà phê bình văn học, nhà triết luận văn hoá, nhà dịch thuật. Người ta đã biết nhiều về ông với tư cách nhà phê bình văn học mà ít biết về ông như nhà triết luận văn hoá. Về mặt này ông thể hiện một niềm trăn trở khôn nguôi đối với các vấn đề văn hoá Việt Nam hiện đại.

  • LTS: Tiểu thuyết Biết đâu địa ngục thiên đường đã lập “hattrick” nhận liền ba giải thưởng trong năm 2010 (Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam, Giải thưởng Nguyễn Du, Tặng thưởng công trình Văn học nghệ thuật xuất sắc của Hội LHVHNT TT Huế). Để giải đáp phần nào thắc mắc từ phía bạn đọc về tính chất “tự truyện” cũng như chuyện bếp núc của cuốn tiểu thuyết “gia đình” này, Sông Hương xin giới thiệu bài viết của chính tác giả cầm tinh con Mèo - nhà văn Nguyễn Khắc Phê.

  • PHẠM TẤN HẦUCó tập thơ chỉ là tập hợp những bài thơ. Nhưng Thi ca mùa ngái ngủ của Lê Huỳnh Lâm, dù là tập thơ đầu tay nhưng đã thể hiện một cái nhìn nhất quán về thế giới thi ca mình khám phá. Đó là thế giới được mở to trước những “cơn đau”, trước “nỗi kinh hoàng vây quanh trái đất”, “trong đền thờ quỷ ma” và trong ca “ngôi nhà không thần thánh”…

  • TRẦN VĂN SÁNG - NGUYỄN THỊ TỐ LOANKỷ niệm 100 năm Bác Hồ đi tìm đường cứu nước (1911 - 2011)

  • ĐỖ LAI THÚY      Thơ có tuổi và chiêm bao có tích                                  Hàn Mặc Tử

  • NGUYỄN HỒNG TRÂNNữ sĩ Tương Phố tên thật là Đỗ Thị Đàm sinh ngày 14/7/1900, nguyên quán ở xã Bối Khê, tổng Cẩm Khê, huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên và mất ngày 8/11/1973 tại Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng.

  • PHẠM PHÚ PHONGChính cái bìa tập truyện ngắn là Sứ giả Việt Hùng do hoạ sĩ Đinh Khắc Thịnh trình bày đã gợi ý tưởng cho tôi viết bài này, sau khi đọc đi đọc lại vài lần tập truyện ngắn gồm có chín truyện của Việt Hùng - chín truyện ngắn anh viết trong vòng hơn mười hai năm, kể từ khi tập truyện ngắn đầu tay Cô gái hoàng hôn (1997, cũng gồm có chín truyện ngắn), ra đời cho đến nay.

  • Ý THIỆNVào ngày 27, 28 tháng 7 năm 2001, tại chùa Từ Đàm - Huế đã diễn ra Lễ kỷ niệm 50 năm ngày Gia đình Phật Hoá Phổ - tổ chức tiền thân của Gia Đình Phật tử Việt Nam, với hơn 3000 đoàn sinh về tham dự. Sự kiện này đã thu hút sự chú ý của nhiều tầng lớp nhân dân thành phố Huế cũng như phật tử khắp nơi trên đất nước.

  • NGUYỄN ĐỨC TÙNGNguyễn Đức Tùng: Chào nhà thơ và cô giáo dạy văn Đinh Thị Như Thúy. Được biết chị đang sống và làm việc ở một huyện thuộc tỉnh Đắc Lắc. Chị có tìm thấy cho mình một quê hương ở đó không?

  • ĐINH XUÂN LÂM - VÕ VĂN SẠCHTrong khi khai thác tư liệu về phong trào đấu tranh yêu nước chống xâm lược Pháp hồi cuối thế kỷ XIX của nhân dân ta tại Cục lưu trữ Trung ương, chúng tôi có tìm được hai bài thơ nôm của vua Hàm Nghi ban cho các quân thứ Bắc kỳ.

  • HỒ THẾ HÀKỷ niệm 8 năm ngày mất nhà thơ Tố Hữu (9-12-2002 - 9-12-2010)

  • NGUYỄN NHÃ TIÊNTừ buổi trình làng tập thơ “Bông hồng ngủ quên”, tiếp theo là tập “Nhặt mùi hương trầm đâu đây”, cho đến bây giờ thi phẩm thứ ba của Võ Kim Ngân “Viết lúc sang mùa” vừa mới được Nxb Văn học cấp phép ấn hành tháng 7-2010.

  • THANH THẢO(Đọc “Bán đảo” của Thái Bá Lợi)

  • TRẦN HUYỀN TRÂNNgày 10 - 10, Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế và Công ty Văn hóa Phương Nam đã tổ chức buổi tọa đàm về tiểu thuyết Biết đâu địa ngục thiên đường của nhà văn Nguyễn Khắc Phê. Buổi tọa đàm đã thu hút sự quan tâm sâu sắc của các nhà văn, nhà nghiên cứu và đông đảo sinh viên các trường đại học.

  • KIM QUYÊNSau tập thơ Ngày đầu tiên(*), nhà văn Trần Hữu Lục tiếp tục ra mắt bạn đọc tập Góc nhìn văn chương(**) và anh sẽ xuất bản tập truyện ngắn Trần Hữu Lục (tuyển chọn năm 2010). Thật là một mùa bội thu với nhà văn Trần Hữu Lục.

  • HỒNG DIỆU(Nhân đọc Trái tim sinh nở và Bài thơ không năm tháng *)

  • MAI VĂN HOANTôi cố hình dung những tháng ngày nhà văn Hồng Nhu trăn trở, băn khoăn lựa chọn việc trở về quê hay ở lại thành phố Vinh - nơi anh từng gắn bó đã hơn hai mươi năm với bao kỷ niệm vui buồn.

  • KHẢI PHONG“Thơ kỵ nhất viết điều người đã viết! Nhưng biết sao, khi tôi mến sông Cầu…Lòng khẽ nhắc: đừng nói điều đã viết,Sao âm vang cứ mãi gọi: sông Cầu”