(Một đôi chỗ cần lưu ý)
CHU TRỌNG HUYẾN
Ảnh: internet
![]() |
Phan Bội Châu (1867-1940), con người mà cuộc đời và sự nghiệp gắn liền với một giai đoạn lịch sử chống thực dân Pháp của dân tộc Việt nam đầu thế kỷ 20. Không ít người thuộc thơ phú của ông, tàng trữ ít nhiều trước tác của ông và nhiều người muốn sưu tập được càng nhiều càng tốt những di thảo của ông. "Phan Bội Châu toàn tập" do Chương Thâu sưu tập biên soạn, Trần Văn Giàu viết giới thiệu và Nhà xuất bản Thuận Hóa ấn hành (1990), trước tiên phù hợp với lòng mong muốn của nhiều lớp người như vậy.
Với tấm lòng tôn quý nhà cách mạng và nhà văn Phan Bội Châu và với tấm lòng trân trọng công trình sưu tập biên soạn này, nhân khi đọc, bước đầu, chúng tôi thấy có đôi điểm sau đây muốn trao đổi với soạn giả.
Toàn tập đã đưa các tác phẩm thành văn (vốn đã được công bố) vào các tập: 1, 2, 3, 7, 8, 9, 10: Về văn bản học, phần này đã đi vào ổn định. Các tập 4, 5, 6 chủ yếu là câu đối, thơ, phú, bài luận thuyết của Phan Bội Châu, mới sưu tập được từ năm 1945 lại nay. Ở cả hai phần, đều đã được soạn giả làm việc công phu, tuy nhiên, cũng có đôi chỗ cần lưu ý thêm.
Ví ở tập 1 (tr. 236), bài "Qua đò Lách" là bài thơ được góp nhặt và lưu truyền một cách tản mát ở Nghệ Tĩnh mà chưa thật rõ là của ai. Soạn giả có chú thích là Ninh Viết Giao cho rằng đó là thơ bà Tú Ý. Bài có những câu:
"Trông lên Hồng Lĩnh mây tuôn ngược,
Ngó xuống Lam Giang nước chảy xuôi"
Chỉ tâm trạng của một con người bị mất mát, chán đời. Rồi tiếp đến:
"Còn trời, còn đất, còn vũ trụ
Còn vua, còn chúa hãy còn tôi".
Câu trước là một lời triết lý dễ dãi. Câu sau là một niềm tin mù quáng. Tất cả đều không phù hợp với tư tưởng của Phan Bội Châu. Nhất là, bài thơ có ghi thời gian xuất xứ là 1905, cái thời điểm Phan Bội Châu đang hăm hở:
"Nguyễn trục trường phong Đông Hải khứ
Thiên trùng bạch lãng nhất tề phi"
Chỉ vì muốn:
"Nắm địa cầu vừa một tý con con
Đạp toang hai cái cánh càn khôn"
(Bài: "Chơi xuân", cùng trang, cùng tập)
Vậy, thêm bài "Qua đò Lách", một tiếng nói lạc điệu so với thơ Phan Bội Châu hồi 1905. Kể cả những bài chưa đủ cơ sở để nói là của Phan Bội Châu như "Từ biệt thân hữu" (trang 231, T1) thì cũng không nên đưa vào. Người phản biện có thể khẳng định, đây không phải là lời Phan Bội Châu. Vì, "Phong vi vi hề chấp quân quyết" tức "Gió thổi hiu hiu vậy ôi! tay nắm lấy chéo áo bạn". Ra đi với lòng ước mong có sự nghiệp lớn như Phan Bội Châu mà lại cứ "Chấp quân quyết" mãi thì đi làm sao được? Sao lại gán cái bịn rịn ấy cho Phan Bội Châu, con người đang mong "nắm địa cầu vừa một tý con con" lúc này!
Phải chăng, ở đôi chỗ, Toàn tập còn thiếu đi cái tinh. Về kịch bản "Truyện Trưng Nữ Vương diễn tuồng" (trang 23 T3) thì ở Nghệ Tĩnh trước đây nhất là Nam Đàn, Hưng Nguyên, nhiều người đã thuộc lòng với tên gọi là "Tuồng Trưng Trắc" mà tên gọi này nghe cũng nghệ thuật hơn. Các độc giả, khán giả ấy rất tôn kính Phan Bội Châu, thuộc nhiều thơ của ông, coi ông là "thánh" nhưng họ đã lưu diễn "Tuồng Trưng Trắc” với sự ghi nhận đó là kịch bản do Vương Thúc Lương, người làng Sen, Nam Đàn viết. Sau này họ mới nghe nhiều nhà nghiên cứu văn học nói thêm rằng, kịch bản ấy có được Phan Bội Châu nhuận sắc. Về lai lịch tác phẩm và tác giả kịch bản "Tuồng Trưng Trắc" ta phân định như vậy là thỏa đáng thế nhưng trong toàn tập, soạn giả không có phần lai lịch tác phẩm, nên cũng không nhắc gì đến Vương Thúc Lương cả.
Đáng chú ý hơn, ở các tập 4, 5, 6 là những tập ghi chép về câu đối, thơ phú về các bài xã thuyết của Phan Bội Châu trong 15 năm ở Bến Ngự (Huế). Bởi toàn cảnh sống và tuổi tác của tác giả như ta đã biết, chúng tôi thấy việc đưa vào toàn tập phần sáng tác của ông trong thời gian này cũng cần có sự chọn lọc thỏa đáng.
Câu đối (tr. 432, T6) sau đây:
"Trùng tuyền hạ đối án hàn huyên cầm sắt hữu thanh giai quốc tháo
Trấp tải dư ngã thế huynh vị nhi tiều tụy vô mộng bất thăng nhai ".
Ghi là "Điếu cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc” thì cần phải xem lại. Về nội dung, chí hướng, ông Phan và ông Nguyễn không phải là bạn "cầm sắt hữu thanh". Trong "Trấp tải dư", cả hai đều chẳng phải là "tiều tụy vô mộng". Phan Bội Châu hẳn đã không nghĩ như vậy. Về lời thì hai câu đối trên, nhiều chỗ khổ độc và đối ngẫu không chỉnh như "đối án hàn huyên" mà đối với "ngã thế huynh vị" vừa không có nghĩa vừa sai luật bằng trắc, từ loại. Cũng như "Quốc tháo" là lòng tiết tháo vì đất nước mà đem đối với "thăng nhai" là bên bờ (?) thì thật là vô nghĩa.
Cũng ở trong tập này (tr. 433), câu đối điếu Đặng Chính Kỷ thì đúng là của Phan Bội Châu, nhưng toàn tập đã ghi:
"Phụ tử bất dữ mưu, thử sự dĩ tri nga phó hỏa;
Phù sinh hà túc tích, lân quân tuy tử báo lưu bì " là không đúng.
Về văn chữ Hán, Phan Bội Châu không viết dễ dãi với ý "thử sự dĩ tri" (chuyện ấy đã biết) và "phù sinh hà túc tích" (cuộc phù sinh sao khá nhớ) rẻ rúng như vậy. Cũng có thể là sự phàn nàn nhưng đã là lời lẽ của Phan Bội Châu thì tâm huyết và nhuần nhuyễn. Văn của Phan, nhất là thơ chữ Hán và câu đối, khiến người đọc dễ thuộc và khi đọc đến là người ta có lúc phải đứng lên dù là nói đến những điều bất hạnh, vì ý thơ của ông rất sâu có sức lay động rất lớn.
Hai câu này nguyên là:
"Phụ tử nan dữ mưu, để cục tảo tri nga phó hỏa;
Phù sinh hà túc luyến, lân quân do tự báo lưu bì "
nghĩa là: Trẻ con khó mà mưu nổi việc (lớn), rốt cuộc sớm biết (đó là) con thiêu thân lao vào lửa; Cuộc phù sinh sao mà tiếc nổi, thương anh còn là con báo (chết) để da.
(Tục ngữ Việt Nam: "Con báo chết để da; người ta chết để tiếng")
Đặng Chính Kỷ là học trò thân của Phan Bội Châu đã vào Bến Ngự sống với Phan một thời gian khi Phan mới về ở đó (khoảng 1925-1926). Sau đó Đặng về quê đi dạy học, hoạt động cách mạng rồi hy sinh vì cao trào Xô-Viết Nghệ Tĩnh. Khi nghe tin Đặng mất Phan đã viết câu này vì đau xót thực lòng. Song, đó cũng là điều đau lòng của ta. Bởi Phan Bội Châu đã không đủ những thông tin để nhận thức đúng về phong trào Xô-Viết Nghệ Tĩnh và tấm gương chiến đấu oanh liệt của người học trò của mình lúc này. Về sau, ông có hiểu ra và thay đổi nhận thức đối với phong trào cách mạng 1930-1931, tuy có muộn. Vậy thì những việc riêng lẻ nhất thời như câu đối nói trên không phản ánh được tư tưởng yêu nước, cách mạng nói chung của Phan Bội Châu do đó, không đưa nó vào toàn tập thì hơn. Nêu ra vài ví dụ như vậy, chúng tôi muốn nói phần sáng tác của Phan Bội Châu ở trong các tập 4, 5, 6 nếu sau này được in lại thì nên có sự chọn lọc thêm.
Cũng nhân đây, chúng tôi muốn đề cập đến việc đánh giá Phan Bội Châu qua "Lời giới thiệu" và "Nhận thức của người sưu tập, biên soạn" trong "Phan Bội Châu toàn tập".
Ở lời đề của "Lời giới thiệu" chỉ nên viết: Phan Bội Châu nhà cách mạng, nhà văn, nhà tư tưởng dân chủ của Việt Nam đầu thế kỷ 20 là đủ. Không nên thêm tính từ "yêu nước" sau chữ "nhà văn", cũng như không cần thêm trạng từ "lớn nhất" sau "nhà tư tưởng dân chủ". Vì đã là nhà cách mạng thì tất phải là yêu nước. Còn tư tưởng dân chủ của Phan Bội Châu thì chưa nên khẳng định là lớn nhất. Vì cách đề như thế có thể khiến người ta đặt câu hỏi Phan Bội Châu là nhà dân chủ lớn nhất thì ai là thứ nhì, ai là thứ ba? khi lịch sử chưa cho phép chúng ta đánh giá khẳng định. Cùng với Phan Bội Châu có Phan Chu Trinh, Đặng Thúc Hứa, Ngô Đức Kế... và, nếu như theo thời gian đã được tác giả khẳng định trong "lời giới thiệu" là khoảng 25 năm đầu thế kỷ, thì phải kể đến cả Nguyễn Ái Quốc.
Cũng như trong bài "Nhận thức của người sưu tập, biên soạn" ở trang 23 viết: "Phan bội Châu đã đặt nền móng cho cách mạng về sau (đoàn kết dân tộc, con người cách mạng...)". Nhận định như vậy trọn vẹn quá, lớn quá. Chỉ nên nói: Phan Bội Châu đã góp phần đặt nền móng cho cách mạng về sau. Như thế, dễ chấp nhận hơn. Không nên mở dấu đơn để nối thêm đặt nền móng về "con người cách mạng". Vì nói con người làm nền móng cho cách mạng sau này thì phải nói đến tư tưởng, ý thức hệ... Như vậy thì với nhận thức và hoàn cảnh của Phan Bội Châu làm sao ông ta đặt nổi "nền móng".
Ý nhỏ cuối cùng là vấn đề in chữ Hán. Khi nâng quyển 1 của toàn tập ai cũng có thêm điều mừng là thấy đằng sau có phần in chữ Hán. Nhưng từ tập 2 cho đến tập 10 thì không có phần chữ Hán như thế. Người đọc dễ hiểu là nếu in trọn phần chữ Hán thì công viết, công sắp chữ lớn, toàn tập dày thêm, tốn kém nhiều hơn mà kinh phí có hạn. Nhưng dẫu sao, người đọc vẫn muốn cả 10 tập đều có phần in chữ Hán. Hoặc giả, ở mỗi tập chọn in những câu bài chữ Hán cần đối chiếu.
Ngọc còn có vết, huống chi một bộ "Phan Bội Châu toàn tập", 10 quyển, ngót 4900 trang sách do từ nhiều văn bản nhiều địa phương (trong và ngoài nước) được tập hợp, ghi chép lại thì sao mà mười phần vẹn mười được. Chúng tôi chỉ là một người đọc sơ bộ góp phần điểm sách với tấm lòng mong khi toàn tập được in lại thì sẽ tốt hơn.
Xin ghi lại ở dòng cuối tấm lòng biết ơn đối với soạn giả Chương Thâu và Nhà xuất bản Thuận Hóa.
C.T.H
(TCSH47/05-1991)
NGUYÊN QUÂN
Một cảm nhận thật mơ hồ khi cầm trên tay tập sách, vừa tản văn vừa tiểu luận của nhà văn Triệu Từ Truyền gởi tặng. Sự mơ hồ từ một cái tựa rất mơ hồ bởi lẽ chữ là một thực thể hữu hiện và chiếc cầu tâm linh chính lại là một ảo ảnh rất dị biệt với thực thể hữu hạn của những con chữ.
TUỆ AN
Đọc “Ảo giác mù”, tập truyện ngắn của Tru Sa (Nxb. Hội Nhà văn, 2016)
TRẦN VIẾT ĐIỀN
Ngô Thì Nhậm viết bài thơ Cảm hoài cách đây 223 năm, nhân đi sứ báo tang Tiên hoàng Quang Trung băng hà và cầu phong An Nam quốc vương cho vua Cảnh Thịnh.
NGUYỄN THỊ THANH LƯU
Đã từ rất lâu rồi, tôi hài lòng với việc đọc thơ trong màu xám của một nỗi tuyệt vọng - nỗi tuyệt vọng không bao giờ phân tách nổi trắng đen giữa đám sương mù xám đặc dường như chỉ có dấu hiệu đậm dần lên trong những lớp lang chữ nghĩa, trong cách ngắt nhịp, buông vần.
MAI VĂN HOAN
Lẽ ra tôi không viết bài này. Thiết nghĩ văn chương thiên biến, vạn hóa, mỗi người hiểu một cách là chuyện bình thường. Tốt nhất là nên tôn trọng cách nghĩ, cách cảm thụ của người khác.
TRIỀU NGUYÊN
1. Đặt vấn đề
Nói lái được sử dụng rộng rãi trong giao tiếp thông thường, và trong văn chương (một lối giao tiếp đặc biệt). Để tiện nắm bắt vấn đề, cũng cần trình bày ở đây hai nội dung, là các hình thức nói lái ở tiếng Việt, và việc sử dụng chúng trong văn chương.
NGUYỄN KHẮC PHÊ
(Đọc tiểu thuyết “Huế ngày ấy” của Lê Khánh Căn, Nxb. Quân đội nhân dân, 2006).
HỒ ĐĂNG THANH NGỌC
(Đọc “Song Tử” của Như Quỳnh de Prelle)
VŨ TRỌNG QUANG
Trần Thiên Thị viết tắt TTT hay đọc là 3 Tê, tôi liên tưởng đến những T thơ ca:
GIÁNG VÂN
Tôi gọi chị là “ Người truyền lửa”.
LGT: Trong khi giở lại tài liệu cũ, tình cờ chuỗi thơ xuân năm Ất Dậu 2005 của Thầy Trần Văn Khê xướng họa với chị Tôn Nữ Hỷ Khương và anh Đỗ Hồng Ngọc rơi vào mắt.
Là một nhà văn có sự nghiệp cầm bút truân chuyên và rực rỡ, sau cuốn tiểu thuyết “Chuyện ngõ nghèo”, có thể coi như cuốn tự truyện của nhà văn, Nguyễn Xuân Khánh chủ trương gác bút. Bởi ông biết mỗi người đều có giới hạn của mình, đến lúc thấy “mòn”, thấy “cùn” thì cũng là lúc nên nghỉ ngơi.
Nhà văn Ngô Minh nhớ ông và bạn văn cứ gặp nhau là đọc thơ và nói chuyện đói khổ, còn nhà thơ Anh Ngọc kể việc bị bao cấp về tư tưởng khiến nhiều người khát khao bày tỏ nỗi lòng riêng.
Tháng 4.1938, Toàn quyền Đông Dương đã “đặt hàng” học giả Nguyễn Văn Huyên thực hiện công trình Văn minh Việt Nam để dùng làm sách giáo khoa cho bộ môn văn hóa VN trong các trường trung học. Một năm sau, công trình hoàn thành nhưng lại không được người Pháp cho phép xuất bản.
TRẦN HOÀI ANH
NGUYỄN VĂN MẠNH
Kỷ niệm 140 năm ngày sinh Cụ Huỳnh Thúc Kháng
MAI VĂN HOAN
Vào một ngày cuối tháng 5/2016 nhà thơ Vĩnh Nguyên mang tặng tôi tác phẩm Truyện kể của người đánh cắp tượng Phật Thích Ca Mâu Ni vừa mới “xuất xưởng”.
Trong đời sống học thuật, nhất là khoa học xã hội, có rất nhiều thân danh dành cho số đông, công chúng (quen xem tivi, nghe đài đọc báo) nhưng cũng có những tiếng nói chỉ được biết đến ở phạm vi rất hẹp, thường là của giới chuyên môn sâu. Học giả Đoàn Văn Chúc là một trường hợp như vậy.
Dồn dập trong ba tháng Tám, Chín, Mười vừa qua, tám trong loạt mười cuốn sách của nhà nghiên cứu về Lịch sử Việt Nam thời Tây Sơn Nguyễn Duy Chính liên tiếp ra đời (hai cuốn kia đã ra không lâu trước đó). Cuộc ra sách ồ ạt này cộng thêm việc tác giả về thăm quê hương đã thu hút sự chú ý của bạn đọc và các nhà nghiên cứu ở Việt Nam.
NHƯ MÂY
Chiều 14/8/2016 không gian thơ nhạc bỗng trải rộng vô cùng ở Huế. Hàng trăm độc giả mến mộ thơ Du Tử Lê và bạn bè văn nghệ sĩ từ các tỉnh Kiên Giang, Đắk Lắk, Quảng Nam, Quảng Trị, Đà Nẵng, Hà Nội đã về bên sông Hương cùng hội ngộ với nhà thơ Du Tử Lê.