Huế trong quá khứ Huế có quá trình hình thành và phát triển khá lâu đời trên 700 năm, là trung tâm chính trị - kinh tế - văn hóa của Đàng Trong, nơi Nguyễn Huệ lên ngôi Hoàng đế tiến hành Bắc phạt, là kinh đô dưới thời Nguyễn. Với tư cách là một đô thị, năm 1899 thị xã Huế được thành lập, năm 1929 nâng lên thành thành phố Huế. Do vị trí chính trị, văn hóa và nhiều nét đặc trưng của Huế, nổi bật là Cố đô Huế; khi nói về hình ảnh đất nước mọi người đều liên tưởng đến 3 thành phố trung tâm Huế - Hà Nội - Sài Gòn. Chính vì vậy, năm 1960, Huế - Hà Nội - Sài Gòn đã tiến hành lễ kết nghĩa và như xã luận báo Nhân Dân ngày đó đã viết: “Hà Nội - Huế - Sài Gòn kết nghĩa với nhau tiêu biểu là Bắc Nam ruột thịt, cho tinh thần đoàn kết đấu tranh của một dân tộc, cùng chung một tổ quốc, không thể chia cắt”. Sau ngày đất nước thống nhất, Huế là một thành phố thuộc tỉnh. Khi Thừa Thiên Huế được tái lập năm 1989, Huế là đô thị loại 3. Lúc đó, ai ai cũng cảm nhận Huế với chiếc áo chật khó phát huy được vị thế và thực tế trong thời gian qua trung ương đã dành cho Huế không ít ưu ái: năm 1992, Huế là thành phố thuộc tỉnh đầu tiên của cả nước được công nhận là đô thị loại 2 (thời điểm này thành phố loại 2 là thành phố trực thuộc trung ương); năm 2005 Huế là thành phố thuộc tỉnh đầu tiên của cả nước được công nhận là đô thị loại 1 (cũng thời điểm này đô thị loại 1 là thành phố trực thuộc trung ương); Chính phủ cũng đã ban hành quy chế đặc thù cho thành phố Huế. Tuy nhiên, những ưu ái nêu trên cùng với cơ chế quản lý như hiện nay dường như chiếc áo chật chưa được tháo cởi. Không ít ý kiến mạnh dạn đặt ra như: xây dựng Huế thành một thành phố lịch sử đặc thù hoặc mở rộng thành phố đến Tứ Hạ, Bình Điền, Phú Bài, Thuận An phát triển lên thành thành phố trực thuộc trung ương...
Chân dung đô thị Huế Kết luận 48 của Bộ Chính trị cũng như định hướng của Chính phủ về hệ thống đô thị Việt Nam đến năm 2025 và tầm nhìn đến năm 2050 đã phần nào phác thảo bức tranh chân dung đô thị Huế dưới hình dạng đô thị trung tâm chính và chùm đô thị vệ tinh với các mối quan hệ liên thông - hợp tác chặt chẽ với nhau qua mạng lưới giao thông hiện đại, hạ tầng kỹ thuật đô thị phù hợp. Xác định này hết sức quan trọng bảo đảm cho thành phố lớn là một đô thị sinh thái với đô thị hạt nhân là Cố đô Huế. Mặt khác, với không gian rộng lớn của thành phố mới, việc đầu tư sẽ không dàn trải, trong lúc cần phải có thời gian chuẩn bị cho một lớp thị dân mới. Đô thị mới là một đô thị có rừng, có biển, có đầm phá, núi đồi, đồng bằng... có điều kiện để xây dựng một thành phố: phố trong rừng, rừng trong phố... trở thành một đô thị độc đáo như hình ảnh của một đất nước thu nhỏ. Vì vậy, trong nhiều tiêu chí để trở thành thành phố trực thuộc trung ương, đối với Huế có lẽ tiêu chí quan trọng nhất là xây dựng thành phố văn hoá. Kết luận 48 của Bộ Chính trị và nỗ lực của Thừa Thiên Huế thời gian qua cho thấy: Huế có điều kiện để phát triển đô thị cảng biển, đô thị du lịch, đô thị đại học, phố núi và cửa khẩu... và cao hơn hết là phải biến Cố đô Huế thành thiên đường nghỉ dưỡng đặc sắc không những trong nước mà còn cả trên thế giới. Điều này đặt ra cho các nhà hoạch định phải có những tính toán vừa thận trọng, vừa táo bạo và có những bước đi phù hợp. Đối với đô thị trung tâm, hệ thống cây xanh và không gian mở vẫn được duy trì nhưng mối đe dọa vẫn còn lớn. Thành phố thời gian qua có nhiều nỗ lực làm phong quang vẻ đẹp thành phố, di dời các cơ sở sản xuất ra khỏi nội thành, định cư dân ở thượng thành, hộ thành hào, ngự hà... đang triển khai những chương trình lớn hơn như định cư dân vạn đò, khơi thông hệ thống thủy đạo kinh thành Huế... Phát triển nhanh thành phố Festival của Việt Nam, đồng thời đầu tư phát huy vai trò trung tâm, nổi trội của văn hoá, giáo dục, y tế Huế. Tuy nhiên để bảo đảm không gian kinh thành Huế, không gian 2 bờ sông Hương, không gian vùng nhà vườn Kim Long, Hương Long, Thủy Biều, Vỹ Dạ; không gian khu lăng tẩm; không gian đô thị cổ Gia Hội - Bao Vinh; không gian khu phố Pháp... Trong quá trình đô thị hoá là điều không đơn giản. Vì vậy, để giảm tải áp lực cho đô thị trung tâm cần mở rộng đô thị trung tâm đến Phú Bài, Bình Điền, Tứ Hạ, Thuận An như quy hoạch phát triển vùng kinh tế trọng điểm miền Trung mà Chính phủ đã ban hành. Bên cạnh đó, đối với đô thị trung tâm cần có những bước đi táo bạo. Trước đây thành phố đã mạnh dạn di dời các cơ sở sản xuất ra khỏi nội thành thì nay cũng nên xem xét đưa những cơ quan, đơn vị, trường học... ở nội thành không còn phù hợp ra khỏi nội thành, biến những hồ hào nội thành thành những nơi nghĩ dưỡng cao cấp mang tầm cỡ khu vực và quốc tế, nơi sinh hoạt văn hóa, tinh thần của người dân. Xây dựng một thành phố đại học tập trung xứng tầm một Đại học Quốc gia, mạnh dạn di dời các cơ sở đại học tản mạn nằm rải rác trên thành phố, đặc biệt là khu vực nội thành. Một cực chia sẻ với đô thị trung tâm là đô thị Chân Mây – Lăng Cô. Đây là một đô thị mới với nhiều cơ hội mở ra để hình thành một thành phố Cảng, một trung tâm giao thương quốc tế lớn, trung tâm vận tải biển, một trung tâm nghỉ dưỡng cao cấp... Đây sẽ là một thành phố năng động, phát triển mạnh mẽ đối trọng với những bước đi tỉnh táo, chậm rãi ở đô thị trung tâm. Đối với những đô thị còn lại, trong quá trình phát triển cần chú ý đến đặc trưng văn hóa từng vùng như xây dựng phố núi như thế nào? phát triển phố núi vùng cửa khẩu ra sao? phát triển đô thị Phong Điền như thế nào để kết gắn với Thanh Tân, Phước Tích... Như vậy chúng ta có thể hình dung thành phố lớn bao gồm đô thị trung tâm và các đô thị vệ tinh liên thông với nhau bằng một hệ thống giao thông hiện đại, hệ thống cơ sở hạ tầng đồng bộ nhất là điện, nước, bưu chính viễn thông, môi trường... Chuyển tiếp bằng những cánh rừng, những ngôi làng, những khu sinh thái, những công viên lớn.... Đi lên từ văn hoá Xây dựng Huế trở thành một trung tâm lớn, đặc sắc của cả nước về văn hóa, du lịch, khoa học công nghệ, y tế chuyên sâu và giáo dục chính là làm cho Huế giàu lên, mà trước hết là làm giàu chất lượng sống, là bảo đảm cho tăng trưởng bền vững. Đây là điều khó đong đếm nên nhận thức cũng không dễ dàng gì, mặc dù trong thực tế đời sống người dân được cải thiện đáng kể, thậm chí một bộ phận dân cư giàu lên từ vị trí trung tâm Huế. Do vậy, con đường đi lên của Huế là phấn đấu để trở thành trung tâm thực sự, có sức lan tỏa thực sự. Thành phố lớn có nhiều thế mạnh để phát triển kinh tế. Với 6 khu công nghiệp tổng diện tích trên 2000 hecta, với các thế mạnh như bia, thủy điện, vật liệu xây dựng, hàng không, cảng biển... rõ ràng thời gian qua chủ đạo trong tăng trưởng vẫn là công nghiệp. Việc phát triển công nghiệp đã tác động không nhỏ đến quá trình đô thị hóa, hình thành một lớp thị dân mới. Tuy nhiên, với tính chất của một thành phố văn hóa di sản duy nhất còn lại của nước ta cùng với những yếu tố nổi trội mà mảnh đất, con người... đặt ra cho Huế phải vươn lên làm giàu từ văn hoá mà trọng tâm là xây dựng một nền công nghiệp không khói, phát triển du lịch, dịch vụ trở thành hướng chủ đạo của nền kinh tế. Thật ra, lâu nay trong tư tưởng của mỗi người dân phát triển văn hóa du lịch là lợi thế nổi trội của Huế và đây chính là đường đi lên của Huế. Ý tưởng này những năm 80 được đặt ra mạnh mẽ trên nhiều diễn đàn, đã trở thành Nghị quyết của Đại hội đảng bộ Thành phố. Tuy nhiên, khi so sánh tỉ trọng giữa du lịch với các ngành và điều kiện lúc đó không ít người không khỏi phân vân. Đặt du lịch là trục xoay của nền kinh tế có nghĩa đặt hoạt động các ngành phải hướng vào du lịch, phục vụ phát triển du lịch. Nông nghiệp phát triển như thế nào để phục vụ du lịch, công nghiệp tiểu thủ công nghiệp, làng nghề hướng vào du lịch như thế nào, vấn đề xuất khẩu tại chỗ ra sao? Tất cả không chỉ dừng lại ở định hướng mà cần có tổng kết đầy đủ, cần có những chính sách, những giải pháp hữu hiệu. Không ai có thể phủ nhận những bước phát triển mạnh mẽ của ngành du lịch, đặc biệt là sau khi Thành phố tổ chức các kỳ Festival, cơ sở vật chất của ngành du lịch phát triển đáng kể nếu không nói là đầy tính đột phá, đặc biệt là trong những năm lại đây. Dù vậy, tỷ trọng của ngành du lịch trong nền kinh tế vẫn còn thấp, điều này nói lên hoạt động du lịch đã, đang còn nhiều khập khễnh, nhiều khoảng trống và nói chung còn thiếu nhiều tính chuyên nghiệp mà biểu hiện rõ nét nhất là trong nhiều năm qua việc giữ khách ở lại Huế chỉ dừng lại ở mức 2 ngày/người. Thành phố có 2 di sản thế giới, có Lăng Cô là Vịnh đẹp nhất thế giới, có nhiều di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh nổi tiếng, là một trong những trung tâm tôn giáo lớn của đất nước với hệ thống chùa chiền, nhà thờ đặc sắc với gần 1000 di tích, địa điểm di tích được tổng kiểm kê, khoanh vùng và lên kế hoạch bảo vệ... điều này thật sự hấp dẫn đối với du khách hàn lâm và là yếu tố nổi trội trong phát triển du lịch. Nhưng du khách ngoài tham quan còn có nhu cầu giải trí, thời gian qua chúng ta đầu tư cho khách sạn, nhà nghỉ ở thì nhiều nhưng phát triển công nghiệp giải trí thì rất hạn chế, còn chưa có hướng mở, có thể nói đầu tư cho lĩnh vực này là không đáng kể. Một điều chắc chắn thiếu công nghệ giải trí thì rõ ràng hoạt động du lịch thiếu hấp dẫn và trở nên đơn điệu. Huế là một trung tâm du lịch lớn của đất nước, nhưng có sản phẩm du lịch chưa chắc đã làm nên trung tâm. Yếu tố làm nên trung tâm chính là tổ chức đưa du khách đến Huế, công tác quảng bá, không vươn lên ở lĩnh vực này khác nào từ trung tâm trở thành vệ tinh. Đưa nền công nghiệp không khói trở thành trục xoay của nền kinh tế đang trở thành nỗ lực chung của Thừa Thiên Huế. Ngoài thành phố hạt nhân Cố đô Huế, hầu như các địa phương trong tỉnh xây dựng chương trình hành động năm 2010 đều coi trọng phát triển du lịch dịch vụ. Nhìn vào danh mục các dự án ưu tiên đầu tư đến năm 2020 ở Thừa Thiên Huế, có 46 dự án với tổng vốn đầu tư trên 3,1 tỉ đôla, tất cả các dự án này điều là lĩnh vực du lịch, đặc biệt là các khu du lịch sinh thái, nhiều dự án như bổ sung vào những lỗ hổng của nghành du lịch. Huế với tư cách một thành phố văn hoá cùng Hà Nội thủ đô chính trị, thành phố Hồ Chí Minh, trung tâm kinh tế sẽ tạo thế chân vạc cân bằng trong phát triển đất nước, khó có địa phương nào trong cả nước có cơ hội như thế. LÊ VĂN LÂN (SDB – 3-2010) |
Trí thức là những người mà lao động hàng ngày của họ là lao động trí óc, sản phẩm của họ làm ra là những sản phẩm trí tuệ, nhưng sản phẩm ấy phải là những sản phẩm có ích cho xã hội...
Ở Huế ngày xưa, người học trò nào cũng có một “Tủ sách Học trò” riêng tư cho mình và nhà nào cũng có một “Tủ sách Gia đình” để dùng chung trong nhà. Người Huế rất trọng học vấn, rất trọng sự hiểu biết nên rất trọng sách. Vì vậy, họ cất sách rất kỹ. Họ thường cất sách để làm kỷ niệm riêng tư cho mình về sau đã đành mà họ còn cất sách để dành cho đám đàn em con cháu của họ trong gia đình, dùng mà học sau nầy. Người Huế nào cũng đều cùng một suy nghĩ là ở đời, muốn vươn lên cao thì phải học và đã học thì phải cần sách. Đối với họ, sách quý là vậy. Lễ giáo Khổng Mạnh xưa cũng đã đòi hỏi mỗi người Huế thấy tờ giấy nào rớt dưới đất mà có viết chữ Hán “bên trên” là phải cúi xuống lượm lên để cất giữ “kẻo tội Trời”! Người xưa cũng như họ, không muốn thấy chữ nghĩa của Thánh hiền bị chà đạp dưới chân.
1. Trung tâm văn hóa tôi muốn đề cập ở đây là thành phố Huế của tỉnh Thừa Thiên Huế. Đã là một Trung tâm văn hóa thì bao giờ cũng quy tụ nhiều nhân tài lớn, trên nhiều lĩnh vực, từ mọi miền đất nước, thậm chí từ cả ngoài nước, trải qua nhiều thế hệ, nhiều thử thách khó khăn mới vun đắp lên nổi một truyền thống, mà có được truyền thống văn hóa lại càng khó khăn hơn. Trong bài viết này tôi chưa đề cập tới những nhà khoa học, những nhà văn hóa và văn nghệ sĩ xuất sắc đang sống và hoạt động tại Thừa Thiên Huế, mà tôi chỉ muốn nói tới chủ yếu các vị đã qua đời nhưng đã để lại dấu ấn sâu đậm, lâu dài cho mảnh đất này, góp phần quan trọng hình thành nên truyền thống văn hóa Huế.
Trên thế giới có nhiều nền văn hóa khác nhau. Trong mỗi nước, ngoài mẫu số chung về nền văn hóa của cả dân tộc, còn có văn hóa vùng miền được phân định căn cứ vào đặc điểm nhân văn riêng của từng nơi. Nơi nào có được tính cách nhân văn đặc thù thì nơi ấy có văn hóa địa phương hay văn hóa bản địa. Một từ mà các nhà văn hóa học năng sử dụng khi đề cập đến lĩnh vực này là “bản sắc”. Nếu dùng từ bản sắc làm tiêu chí để nhận diện văn hóa thì Việt Nam có nền văn hóa riêng của mình, trong đó có văn hóa Huế.
Tôi quê Hà Tĩnh, nhưng lại sinh ra ở Huế, khi ông cụ tôi ngồi ghế Phủ Doãn, tức là “sếp” cái cơ quan đóng bên bờ sông Hương ở giữa Bệnh viện Trung ương Huế và Trường Hai Bà Trưng - Đồng Khánh xưa, nay đang được xây dựng to đẹp đàng hoàng gấp nhiều lần ngày trước. (Thời Nguyễn phong kiến lạc hậu, nhưng lại có quy chế chỉ những người đậu đạt cao và thường là người ngoại tỉnh mới được ngồi ghế Phủ Doãn để vừa có uy tín, học thức đối thoại được với quan chức trong Triều, vừa tránh tệ bênh che hay cho người bà con họ hàng chiếm giữ những chức vụ béo bở. Nói dài dòng một chút như thế vì nhiều bạn trẻ thời nay không biết “Phủ Doãn” là chức gì; gọi là “Tỉnh trưởng” cũng không thật đúng vì chức Phủ Doãn “oai” hơn, do Huế là kinh đô, tuy quyền hành thực sự người Pháp nắm hầu hết).
*Từ tâm thức kính sợ trời đất đến lễ tế Giao: Từ buổi bình minh của nhân loại, thiên nhiên hoang sơ rộng lớn và đầy bất trắc, với những hiện tượng lạ kỳ mưa gió, lũ lụt, sấm chớp, bão tố... đã gieo vào lòng người nhiều ấn tượng hãi hùng, lo sợ. Bắt nguồn từ đó, dần dần trong lịch sử đã hình thành tập tục thờ trời, thờ đất, thờ thần linh ma quỷ. Đó là nơi trú ẩn tạo cảm giác an toàn cho con người thuở sơ khai. Ở phương Đông, tập tục thờ cúng trời đất, thần linh gắn liền với việc thờ cúng tổ tiên, ông bà, phổ biến từ trong gia đình đến thôn xóm, làng xã. Khi chế độ quân chủ hình thành, một số triều đình đã xây dựng những “điển lệ” quy định việc thờ cúng trời đất, thần linh, với những nghi thức trang trọng, vừa biểu thị quyền uy tối thượng của nhà vua, vừa thể hiện khát vọng mong cầu quốc thái dân an, thiên hạ thái bình, phong hoà vũ thuận của muôn dân.
Sông Hương thuộc loại nhỏ của Việt Nam, nhưng với Thừa Thiên Huế có thể nói là “tất cả”. Hệ thống sông Hương cung cấp nước, tạo môi trường để phát triển gần như toàn bộ nền kinh tế - xã hội của Thừa Thiên Huế, đặc biệt sông Hương còn là biểu tượng của Huế, hai bên bờ mang nặng di sản văn hoá nhân loại. Nhưng đồng thời nó cũng đưa lại những trận lụt lớn vào mùa mưa, nhiễm mặn vào mùa hè...
Huế được Chính phủ xác định là một trong 5 thành phố cấp quốc gia, nằm trong khu vực kinh tế trọng điểm của miền Trung, cơ cấu kinh tế từng bước chuyển dịch theo hướng công nghiệp, dịch vụ du lịch. Quá trình phát triển đô thị, Huế đồng thời cũng đứng trước những thử thách mới, còn nhiều bất cập nhưng Huế vẫn giữ được nét kiến trúc riêng. Hình ảnh một thành phố mà kiến trúc và thiên nhiên hoà quyện, phải chăng đó là bản sắc Huế, khó trộn lẫn với bất kỳ một đô thị nào khác trong cả nước.
I. Toàn cầu hóa và lý luận văn học: I.1. “Toàn cầu hóa” làm cho “thế giới trở nên phẳng” (Thomas F.Fredman). Lý luận văn học là một lĩnh vực khoa học nhằm cắt nghĩa, lý giải, khái quát văn chương, đặt trong khung cảnh đó, nó cũng được “thế giới hóa”, tính toàn cầu hóa này tạo nên một mặt bằng chung, hình thành một ngôn ngữ chung. Từ đó mới có sự đối thoại, tiếp biến học hỏi lẫn nhau giữa các nền lý luận của các châu lục, quốc gia tạo nên một thể thống nhất trong đa dạng.
Đêm Nguyên tiêu 15 tháng giêng Quý Mùi 2003, thực hiện chủ trương của Hội Nhà văn Việt Nam, Hội Văn học Nghệ thuật Thừa Thiên Huế, Chi hội Nhà văn Việt Nam tại TTH đã tổ chức trên sông Hương một đêm thơ rất tuyệt vời. Ban tổ chức cho biết Hội Nhà văn Việt Nam đã được phép quyết định kể từ năm nay lấy ngày 15 tháng giêng âm lịch hằng năm làm Ngày Thơ Việt Nam. Quyết định ấy lay động tâm trí tôi vốn đang ưu tư với Huế Thành phố Festival, thay vì đọc thơ, trong đêm Nguyên tiêu ấy tôi đã phác họa sơ lược về một Festival thơ. Không ngờ ý kiến của tôi được Đêm thơ Nguyên tiêu hưởng ứng và các nhà thơ đã đề nghị tôi nên thực hiện một Hồ sơ cho Festival Thơ.
Trí thức trong bất cứ thời đại nào và ở đâu cũng là một nguồn lực quan trọng, là sức mạnh tinh thần nối kết truyền thống của dân tộc với thành tựu trí tuệ của thời đại. Khi nguồn lực trí tuệ của đội ngũ trí thức gắn kết được với sức mạnh cộng đồng thì xã hội sẽ có những chuyển biến tích cực. Ngược lại, nguồn lực trí tuệ không được phát huy thì năng lực phát triển của xã hội sẽ bị suy thoái. Thừa Thiên Huế có một thời là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá của Đàng Trong và trở thành kinh đô của cả nước. Vì thế Huế đã từng là nơi hội tụ nhiều thế hệ trí thức tinh hoa của đất nuớc. Lớp trí thức lớn lên tại Thừa Thiên Huế có điều kiện tiếp cận với những thiết chế và sinh hoạt văn hoá, học thuật có tầm cở quốc gia (Quốc Tử Giám, Quốc Sử Quán, Hàn Lâm Viện, Thái Y Viện. Khâm Thiên Giám.. ), năng lực trí tuệ của trí thức ở kinh kỳ có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển, cả trên lĩnh vực tư duy sáng tạo và quản lý, thực hành.
I. Sự hình thành và phát triển hệ thống đường phố ở Huế: Trước khi Huế được chọn để xây dựng kinh đô của nước Việt Nam thống nhất, đất Phú Xuân - Huế kể từ năm 1738 đã là nơi đóng đô thành văn vật của xứ Đàng Trong dưới thời chúa Nguyễn Phúc Khoát. Rồi Phú Xuân lại trở thành kinh đô Đại Việt của nhà Tây Sơn. Năm 1802, Nguyễn Phúc Ánh toàn thắng quân Tây Sơn; từ Thăng Long ông trở về Phú Xuân, chọn lại đất ấy, lấy ngày lành, lên ngôi vua, xưng hiệu là Gia Long. Tháng 5 năm 1803, nhà vua sai người ra ngoài bốn mặt thành Phú Xuân, xem xét thực địa, định giới hạn để xây dựng kinh thành mới. Trên cơ sở mặt bằng thành Phú Xuân cũ, lấy thêm phần đất của 8 làng cổ lân cận, mở rộng diện tích để xây dựng nên một kinh thành rộng lớn hơn trước. Cùng với việc xây dựng thành quách, cung điện, nha lại, sở ty... thì đường sá trong kinh thành cũng được thiết lập.
Thừa Thiên Huế là thủ phủ Đàng Trong thời các chúa Nguyễn, là kinh đô của cả nước dưới thời Tây Sơn và triều Nguyễn, nay là cố đô, một trong những trung tâm văn hoá và du lịch quan trọng của Việt Nam , trải qua quá trình đô thị hoá, vừa mang dấu ấn của một đô thị cổ phương Đông, vừa có đặc trưng của một đô thị mới. Để góp phần định hướng phát triển và tổ chức quản lý vùng đất nầy, một trong những việc cần làm là nên soát xét lại kết quả của quá trình đô thị hóa để lựa chọn những giải pháp quản lý phù hợp.
Trong quá khứ, mảnh đất Phú Xuân - Huế đã được chọn để đóng đô thành của các chúa Nguyễn ở Đàng Trong, rồi đến kinh đô Đại Việt của nhà Tây Sơn Nguyễn Huệ, sau nữa là kinh đô Việt Nam thống nhất dưới thời họ Nguyễn Phúc trị vì và cuối cùng trở thành cố đô từ sau Cách mạng Tháng 8.1945. Huế đã và đang là thành phố Festival - một thành phố lễ hội mang nhiều thành tố văn hóa đặc trưng của Việt Nam theo một quy chế đặc biệt. Để có cái nhìn khách quan về lịch sử, thiết nghĩ, chúng ta hãy điểm lại vài nét quá trình đi lên của thành phố Huế để trở thành đô thị loại I - đô thị đặc biệt hôm nay.
Hội nghị cán bộ Việt Minh mở rộng vào cuối tháng 4 đầu tháng 5/1945 diễn ra trên đầm Cầu Hai đề ra chủ trương lớn để phát triển phong trào cách mạng tỉnh Thừa Thiên Huế, chuẩn bị cùng cả nước khởi nghĩa cướp chính quyền khi có thời cơ. Sau hội nghị, phong trào cách mạng phát triển đều khắp trong toàn tỉnh. Đầu tháng 8, được tin quân đội Nhật bị quân đồng minh đánh bại ở nhiều nơi, nhất là ở Mãn Châu Trung Quốc, Thường vụ Việt Minh dự đoán ngày Nhật theo chân phát xít Đức bị đánh bại không còn xa, đã quyết định đẩy mạnh chuẩn bị khởi nghĩa. Giữa tháng 8 được tin Nhật Hoàng sẵn sàng đầu hàng, Thường vụ Việt Minh chỉ đạo các huyện khởi nghĩa. Sau khi tất cả các huyện phụ cận Huế khởi nghĩa thành công, ngày 20/8 Thường vụ Việt Minh triệu tập 6 huyện bàn quyết định chọn ngày 23.8.1945 là ngày khởi nghĩa giành chính quyền. Cũng ngay chiều ngày 20.8.1945 phái đoàn Trung ương có cụ Hồ Tùng Mậu, anh Nguyễn Duy Trinh và anh Tố Hữu đã đến Huế, vì Huế là thủ đô của chính quyền bù nhìn lúc bấy giờ. Khởi nghĩa ở Huế mang sắc thái đặc biệt có tính chất quốc gia. Ta giành lại chính quyền không phải từ tay một tỉnh trưởng mà là từ triều đình nhà Nguyễn - Bảo Đại ông vua cuối cùng, bên cạnh Bảo Đại lại có cả bộ máy chính quyền Trần Trọng Kim do Nhật lập ra. May mắn thay đoàn phái bộ Trung ương vào kịp thời nên vẫn giữ nguyên ngày khởi nghĩa (23.8.1945). Đêm 20.8.1945 cuộc họp của phái đoàn Trung ương và Thường vụ Tỉnh ủy thông qua kế hoạch khởi nghĩa của tỉnh và cử ra Ủy ban khởi nghĩa gồm có: anh Tố hữu là Chủ tịch đại diện cho Trung ương, tôi làm Phó Chủ tịch (PCT) đại diện cho Đảng bộ và Mặt trận Việt Minh địa phương cùng một số ủy viên: Lê Tự Đồng, Lê Khánh Khang, Hoàng Phương Thảo, Nguyễn Sơn...
Ba mươi năm trước, cùng với lực lượng cách mạng, những người làm Báo Cờ Giải Phóng của Đảng bộ Thừa Thiên Huế sôi nổi chuẩn bị số báo đặc biệt và có mặt trong đoàn quân tiến về giải phóng quê hương. Tháng 10/1974, chúng tôi được tham gia hội nghị Tỉnh ủy mở rộng bàn về đẩy mạnh nhiệm vụ đánh kế hoạch bình định, mở rộng vùng giải phóng nông thôn đồng bằng, phối hợp có hiệu quả với các chiến trường, góp phần giải phóng miền Nam, Thường vụ Tỉnh ủy giao nhiệm vụ cho Báo Cờ Giải Phóng ra số báo đặc biệt, nội dung phong phú, hình thức hấp dẫn để chuyển tải khí thế cách mạng miền Nam và trong tỉnh, đưa mệnh lệnh, lời kêu gọi của Mặt trận Dân tộc Giải phóng Thừa Thiên Huế và các chính sách của Mặt trận đối với vùng giải phóng.
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước vĩ đại của dân tộc, lực lượng an ninh huyện Phú Vang đã nêu cao chủ nghĩa anh hùng cách mạng, với 95 thương binh, 135 liệt sĩ và không có một cán bộ, chiến sĩ nào đầu hàng phản bội, lực lượng an ninh huyện Phú Vang và 4 cán bộ an ninh huyện đã được Đảng, Nhà nước phong tặng danh hiệu cao quý “Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân”.
Trong mọi thời đại Hoàng đế và kẻ sĩ có mối quan hệ đặc biệt. Đó là mối quan hệ giữa người cầm quyền và người trí thức có nhân cách và tài năng. Khi Hoàng đế là minh quân thì thu phục được nhiều kẻ sĩ, khi Hoàng đế là hôn quân thì chỉ có bọn xu nịnh bất tài trục lợi bên mình còn kẻ sĩ bị gạt ra ngoài thậm chí có khi bị giết hại. Lịch sử bao triều đại đã chứng minh điều đó. Mối quan hệ giữa Hoàng đế Quang Trung Nguyễn Huệ và La Sơn Phu tử Nguyễn Thiếp của thế kỷ XVIII là cuộc hội ngộ lớn, mang đến nhiều lợi ích cho quốc gia và có ý nghĩa cho muôn đời. Nguyễn Huệ và Nguyễn Thiếp đều sống trong bối cảnh triều Lê suy tàn, chúa Trịnh lộng hành, chúa Nguyễn mới nổi dậy. Sau gần 300 năm hết nội chiến Lê Mạc đến Trịnh Nguyễn phân tranh đời sống nhân dân vô cùng khốn khổ. Trong bối cảnh đó Nguyễn Huệ cùng anh là Nguyễn Nhạc dựng cờ khởi nghĩa, Nguyễn Thiếp cáo quan về ở ẩn.
Năm 2008 là một năm khá kỳ lạ và đặc biệt của loài người. Nửa năm đầu, cả nhân loại thăng hoa với các chỉ số chi tiêu mà ngay cả các chiến lược gia kinh tế cũng phải bàng hoàng. Nửa năm cuối, quả bóng phát triển, ổn định bị lưỡi dao oan nghiệt của khủng hoảng đâm thủng nhanh đến nỗi hàng ngàn đại gia bị phá sản rồi, vẫn chưa lý giải nổi hai chữ “tại sao”. Bất ổn và đổi thay còn chóng mặt hơn cả sự thay đổi của những đám mây. Không phải ngẫu nhiên mà người Nhật lại chọn từ “thay đổi” (kanji) là từ của năm, vì B. Obama đã chiến thắng đối thủ bằng chính từ này (change)...
Bạn đọc thân mến! Hiệp hội Đo lường Thời gian quốc tế đã quyết định kéo dài thời gian của năm 2008 thêm 1 giây, và chúng ta đã chờ thêm 1 giây để đón chào năm mới. Sau thời khắc 23 giờ 59 phút 59 giây của ngày 31.12.2008, không phải là giây đầu tiên của năm mới mà phải sau thời khắc 23 giờ 59 phút 60 giây cùng ngày, năm 2009 - năm lẻ cuối cùng của thế kỷ 21, mới chính thức bắt đầu. Nhân loại đã có thêm một giây để nhìn lại năm cũ và bước sang năm mới. Và trong một giây thiêng liêng ấy, chắc chắn nhiều ý tưởng sáng tạo đã xuất hiện, nhiều tác phẩm nghệ thuật vừa hoàn tất, âm tiết cuối của câu thơ cuối một bài thơ vừa được nhà thơ viết xong và buông bút mãn nguyện. Cùng với ly rượu vang sóng sánh chúc mừng năm mới được nâng lên, cái đẹp, cái cao cả tiếp tục xuất hiện để phụng sự nhân loại và chắc chắn, những nụ hôn của tình yêu thương đã kéo dài thêm một giây đầy thiêng liêng để dư vị hạnh phúc còn vương mãi trên môi người.