Điều kiện cần và đủ để có tác phẩm hay

10:31 12/11/2008
PHẠM XUÂN NGUYÊN1. Trước hết ta phải bàn với nhau về chữ hay, tức thế nào là một tác phẩm hay. Bởi cái hay không bất biến trong không gian và thời gian, nó vận động và biến đổi tùy theo hoàn cảnh, với những tiêu chí cụ thể khác nhau.

Cũng đã một lần ở Hải Phòng (tháng 4/2002), nhân kỷ niệm 20 năm mất Nguyên Hồng, tôi đã có nói đến chuyện Xuân Diệu “nhà thơ mới nhất trong những nhà Thơ Mới”, nhưng chỉ mười năm sau đã không thể cảm nổi thơ Nguyễn Đình Thi, cho đó là thơ dở, là thơ “đầu Ngô mình Sở”. Cái hay của Xuân Diệu, như thế, đã khác cái hay của Nguyễn Đình Thi. Trong những cuộc tranh luận văn học thời gian qua (mà nói đúng ra thì phần nhiều là cãi nhau ngoài văn chương), có một câu mà một bên tranh cãi hay chốt lại: viết gì thì viết, miễn là hay. Thực ra câu đó chỉ là một câu cãi cùn, ở thế bí, vì cái hay không phải là cái thước mét mà đem đo vào mọi vật, mọi thứ của lĩnh vực sáng tạo ngôn từ. Vụ tranh luận quanh tập thơ “Sự mất ngủ của lửa” của Nguyễn Quang Thiều dạo nào là một thí dụ. Một bên cho là tác giả viết “tây” quá, không Việt, và thế là thơ Thiều không hay. Một bên (có tôi trong đó) bảo chính cái lối viết tưởng như “tây” ấy là một cách tân, một cách làm mới thơ của tác giả, và thơ Thiều hay vì thế. Thời gian đã cho thấy cái đúng và cái hay ở về phía nào.
Vậy thế nào là hay? Có cái hay trong lối cũ, lối đã quen. Nhưng lại có cái hay trong sự mới sự lạ. Mới lạ cả ở cái quen thuộc. Thơ lục bát đã hay, sẽ vẫn hay. Nhưng thơ Tân hình thức, thơ dưới dạng “chát”, email, cũng hay, sẽ hay. Tiểu thuyết tả thực đã hay, còn hay. Nhưng tiểu thuyết không tả thực, viết lối hậu hiện đại, cũng hay, đang hay. Như bài thơ lục bát này của Nguyễn Thế Hoàng Linh là hay hay không hay?

Tôi hỏi một không tám không
Chị ơi nỗi nhớ thì lông màu gì?
Chị tổng đài giọng nhu mì
À nhiều màu lắm vặt đi vẫn nhiều
Hình như là bạn đang yêu?
Không, em chỉ hỏi những điều hồn nhiên
Hình như là bạn đang điên?
Vâng, điên thì mới phí tiền hỏi han
...
Xong xuôi hết bốn chín ngàn
                                    (Lặng im thì cũng vừa tàn mùa đông,16.02.04)

2. Tác phẩm văn học, theo ý kiến của một nhà nghiên cứu nước ngoài, phải là một phát minh về hình thức và một khám phá về nội dung. Cái hay là ở cái sự phát minh và khám phá đó. Cho phép tôi được nói đến ở đây, như một dẫn chứng, trong quan hệ với điều đang bàn là tác phẩm hay, về truyện ngắn Bóng đè của Đỗ Hoàng Diệu đang gây hai luồng trái ngược nhau. Tôi phải nói ngay, với tôi, đây là một truyện ngắn hay, hay cả ở cách viết và nội dung. Trong tâm thế, tâm thức giải mã lịch sử và truyền thống Việt, một xu hướng đã được dấy lên từ thời văn học đổi mới, Đỗ Hoàng Diệu đã tạo được một hình tượng “bóng đè” đầy ám ảnh và dằn vặt.

Trước hết, theo trong mạch truyện, đó là bóng đè của truyền thống văn hóa dân tộc đổ xuống khao khát bản năng được sống, được yêu hết mình của những người phụ nữ. Họ muốn bung tỏa, bùng nổ toàn bộ con người bản năng của mình trong sự dâng hiến và đón nhận tình yêu, vượt qua những rào cản cấm kị, kiêng cữ của hệ giá trị một thời, của những tập tục gia đình, dòng họ. Nhưng truyền thống không cho được công khai thỏa mãn tình yêu đầy bản năng của mình. Nhân vật “tôi” trong truyện phải cam chịu phận làm dâu trước một bà mẹ chồng suốt đời coi sóc chiếc bàn thờ của gia tộc. “Tôi” cũng phải nén cơn khát thèm mãnh liệt của mình bên người chồng cứ mỗi lần về quê cúng giỗ là mất hết sinh lực đàn ông, là thành ra như bất lực. Người con gái trong truyện Vu quy đã tự hỏi: “Sống trong căn nhà trang trí tranh Đông Hồ đầy bụi bám, ngửi hít mùi phù sa sông Hồng ngày này qua ngày khác, không hiểu cuộc đời tôi sẽ ra sao”.

Rộng ra, đó là bóng đè của quá khứ đổ xuống con người hôm nay, hay là sự níu buộc, trả thù của quá khứ đối với hiện tại. Con người trong đời sống hiện tại khát vọng sống tự do, khát vọng tự do cá nhân. Nhưng áp lực của truyền thống, của cộng đồng, của dân tộc đè nặng xuống họ. “Tôi” trong truyện nằm trên tấm phản ở trước bàn thờ. “Tấm phản mang quá khứ của gia đình Thụ, xa xôi, chất chồng. Còn tôi, hiện tại, một đứa con dâu đĩ thõa đang ưỡn ngửa căng rát đón chờ”. Chiếc bàn thờ che màn đỏ ở nhà Thụ là hiện thân, là biểu tượng của quá khứ đó. Trước nó, “tôi” trong truyện bị hãm hiếp mà không thể phản kháng, chống cự. Đồng lõa với nó là bà mẹ chồng và cô em chồng, những người cam phận sống trong khuôn khổ quá khứ. Quá khứ là tốt đẹp. Truyền thống là tốt đẹp. Do đó mọi sự cựa quậy muốn thoát khỏi cái bóng quá khứ, truyền thống, đều bị coi là sai trái, tội lỗi.

Rộng ra nữa, đó là bóng đè của Trung Hoa đổ xuống Việt . Cả về chính trị, xã hội và văn hóa. Gia đình Thụ là dòng dõi đế vương Trung Hoa. Cô gái, vợ Thụ, đã bị cha chồng mình từ bàn thờ bước xuống đè bóng hãm hiếp, lần đầu cô bị cưỡng bức, nhưng lần sau cô tự nguyện, sau đó nữa thì cam chịu, vừa thỏa mãn vừa nhục nhã. Một người tình của cô gái trong Vu quy là thương gia Trung Hoa. Trong cuộc tình, cô gái đã cong tấm thân mình lên thành hình chữ S, “một hình chữ S. cố phản kháng” để không trở thành nô lệ của ông ta. Nhưng gã tình nhân người Tàu này nói: “Trong tâm tưởng, em luôn nghĩ em là nô lệ. Em nghĩ thế từ khi em chưa sinh ra, từ cả ngàn năm nay. Em không có sự tự tin”. Và thế là: “Người tôi oằn xuống thẳng đơ, phục tùng giọng nói, phục tùng ý nghĩ của ông. Không còn chữ S nữa mà là chữ I, hai đầu xẹp nhép”. Cô gái đã thử một lần trốn chạy, nhưng rồi lại quay về với lão ta để bị đối xử nô lệ một cách nhục nhã hơn. Tình cảnh Việt dưới bóng đè Trung Hoa là vậy chăng. Họ đã không cam phận, đã tìm cách vượt ra, nhưng dường như vẫn chưa thoát được cái bóng to lớn của người láng giềng phương Bắc. Có thể lấy một liên tưởng ở đây tới đoạn văn Nguyễn Huy Thiệp viết gần hai chục năm trước, cũng trong một truyện ngắn: “Đặc điểm lớn nhất của xứ sở này là nhược tiểu. Đây là một cô gái đồng trinh bị nền văn minh Trung Hoa cưỡng hiếp. Cô gái ấy vừa thích thú, vừa nhục nhã, vừa căm thù nó”(Vàng lửa).

Đọc ở những tầng nghĩa này, thấy chỉ với hai truyện tiêu biểu là Bóng đè Vu quy, Đỗ Hoàng Diệu đã đưa đến người đọc những thông điệp nhiều chiều, mà chắc với không ít người là khó tiếp nhận và chấp nhận. Những phụ nữ trong truyện ở đây vừa là phụ nữ, vừa là dân tộc. Để phản kháng lại quá khứ, truyền thống trói buộc, kìm hãm, nhân vật “tôi” đã chạy ra giữa cánh đồng, giữa khu mồ mả nhà chồng để được là chính mình: “Mười một ngôi mộ yên bình, sự yên bình thái quá một u mê. Tôi muốn những ngôi mộ nứt đất chui ra từng bóng ma, từng oan hồn liệt sĩ xéo sắc, tay dài chạm gối. Tôi nghĩ mình sẽ không sợ hãi. Tôi muốn họ trả lời tôi họ muốn gì ở đứa con gái nhiều xúc cảm này và có gan hãy hãm hiếp tôi giữa ban ngày ban mặt. Vẫn chỉ là im lặng. Má tôi nóng hực, miệng tôi lại khát cháy. Giật tung hàng khuy áo, cành hoa đỏ thẫm đứt đôi, tôi xoay vòng quanh mười một ngôi mộ. Vú tôi rứng tràn không khí. Vú tôi là đời sống, là hơi thở, là khí quyển. Mồ mả là quá khứ, là huân chương, là tổ quốc. Tôi chạy giữa bãi tha ma thênh thang hoang dại. Tôi múa điệu múa da thịt tươi tốt, thách thức thần linh, thách thức âm hồn dòng dõi Trung Hoa nhà Thụ. Tôi tung tăng thể xác, đôi bầu vú tự do khiêu khích cho đến lúc bàn tay xa lạ có năm ngón thuôn mềm đưa lên cài lại hàng khuy áo ngay ngắn. Tôi đứng nhìn bàn tay của chính mình như nhìn bàn tay của một kẻ chất phác quả quyết giắt tay tôi lầm lũi trở về. Có phải bàn tay của kẻ nào đó còn dính vào cườm tay tôi đã hiểu không thể nào chống cự nổi chiếc bàn thờ to dài quá cỡ với tấm màn đỏ nhức nhối chất chứa cả một quá khứ phi phàm?”.

Đoạn kết truyện Bóng đè đã nâng cao hẳn tầm tư tưởng của tác phẩm. Đầu truyện là hình ảnh bàn tay lạ lùng, mỏng tang, “không thay đổi theo mùa hay béo gầy cơ thể”. Cuối truyện lại là bàn tay đó. “Tôi đưa tay mình ra sáng. Nắng lung linh trên năm ngón dài ngắn thanh tao lạ thường. Chiến tranh, giông gió, bão lũ, hán hạn, tôi có thể chết đi rồi mà bàn tay vẫn nguyên vẹn. Tôi đinh ninh điều ấy. Con tôi sẽ có bàn tay của mẹ. Một bàn tay không béo gầy, không trọng lượng, chỉ có làn da mỏng tanh nhưng biết níu giữ tự do cho dù bị thân thể buộc trói. Nắng tắt, mà bàn tay vẫn óng ánh diệu kỳ”. Đó là cái duy nhất của cô gái (Việt ) thuộc về cô (Việt ). Còn bàn tay đó thì còn ước mơ, còn hy vọng chống lại bóng đè.
Để chuyển tải được một thông điệp có nhiều lớp nghĩa như vậy, Bóng đè đã được xây dựng như một ẩn dụ sâu sắc trong một câu chuyện nhiều nhục cảm. Chính lối viết này là một sự táo bạo của tác giả, và nó là thích hợp cho sự thể hiện chủ đề tác phẩm. Tình dục (hay sex) ở đây đã trở thành một yếu tố nghệ thuật cần thiết. Bởi sự mô tả gần như tỉ mỉ, chi tiết cảm giác nhục thể của nhân vật truyện là đồng thời mang ý nghĩa thực và hư, cụ thể và tượng trưng. Vu quy cũng vậy, sự chung đụng của cô gái trong truyện với mấy người tình là mang nghĩa tượng trưng, cô chưa biết tương lai đời mình sẽ gắn bó với ai, chẳng lẽ là với xác ướp. Thân phận cô gái là thân phận đất nước, vu quy vẫn chỉ là ước vọng.

Truyện ngắn Bóng đè hay là vì vậy, theo cách đọc văn bản nghệ thuật của tôi. Có những người khác thấy nó là phản chính trị, phản đạo đức, thì đấy là tùy cách đọc của họ. (Dịp này đang kỷ niệm 240 năm sinh thi hào Nguyễn Du, tôi liên tưởng đến những nhà nho thủ cựu một thời coi Truyện Kiều là “dâm thư” nên đã khuyên răn: “Đàn ông chớ đọc Phan Trần. Đàn bà chớ đọc Thúy Vân Thúy Kiều”. Ôi chao, từ Truyện Kiều đến Bóng đè đã cách hai thế kỷ rồi!). Như vậy là ở đây có sự khác nhau về quan niệm, về cách đọc. Tuy nhiên, khác nhau thế nào thì cũng phải trên cơ sở văn bản in ra. Do đó, điều kiện đủ cho tác phẩm hay là phải bắt đầu từ quan niệm hay như một quá trình động, biện chứng. Và như thế thì không thể tiên quyết đứng trên một quan niệm hay cố định, tĩnh tại để quyết định cái viết nào là được in ra, còn cái viết nào là cấm in, cấm phát hành. Cuốn truyện Bóng đè được ra tại nhà xuất bản Đà Nẵng, và hiện giờ nơi đó đang bị sức ép từ phía những ý kiến phê phán nặng nề cuốn sách. Còn những ý kiến đánh giá cao tác phẩm thì không được coi trọng từ phía quản lý xuất bản. Thế thì sao nào? Thế thì văn học Việt khó có tác phẩm hay, nhất là những tác phẩm hay vượt ra ngoài thói quen, khuôn khổ thông thường.

3. Nói rộng ra, để có tác phẩm hay, điều kiện đủ là phải có bầu không khí tự do, cởi mở cho sáng tạo nghệ thuật, phải để năng lượng sáng tạo của nhà văn được giải phóng và phát huy đến hết mức độ của nó. Bài học Thơ Mới (1932 - 1945) để lại còn tươi nguyên giá trị cho hôm nay.
Mười năm Thơ Mới là cả một thời đại. Thời đại của sự giải phóng tình cảm cá nhân, của sự tự do nảy nở cá tính sáng tạo. Tác giả Thi nhân Việt đã viết một cách sảng khoái tự tin: “Tôi quả quyết rằng trong lịch sử thi ca Việt chưa bao giờ có một thời phong phú như thời đại này. Cá tính con người bị kiềm chế trong bao nhiêu lâu bỗng được giải phóng. Sự giải phóng có thể tai hại ở chỗ khác. Ở đây nó chỉ làm giàu cho thi ca. Cái sức mạnh súc tích từ mấy ngàn năm nhất đán tung bờ vỡ đê. Cảnh tượng thực là hỗn độn”.

Không có cảnh tượng hỗn độn đó thì đã không có ngày hội tưng bừng của Thơ Mới. Bao nhiêu nguồn tình cảm bấy lâu âm ỉ giờ trào ra trong thơ theo nhiều hướng, nhiều dòng, mỗi cách một vẻ, mỗi vẻ một riêng. Người thơ mới cảm thấy sung sướng được tự do, thành thực, được bộc lộ hết mình, được đi đến tận cùng cảm xúc, được tự mình khám phá thể nghiệm những lối đi chưa ai từng đi, được thoải mái bày tỏ những quan niệm suy nghĩ riêng về nghệ thuật. Lấy nhóm thơ Bình Định làm thí dụ. Hàn Mặc Tử, Bích Khê, Chế Lan Viên đi một lối thơ riêng, họ gọi là thơ Điên thơ Loạn, trong khi Quách Tấn vẫn giữ một lối Đường thi cổ điển trong sáng. Họ phân công đề tựa cho nhau khẳng định nhau và tuyên ngôn “trường phái” thơ mình. Tập thơ Điêu tàn cùng bài tựa nổi tiếng của nó chỉ có thể ra đời được trong hoàn cảnh đó. Cũng nhờ hoàn cảnh đó, Hàn Mặc Tử mới phát lộ hết độ huyền thẳm của tài năng, thu nhận vào mình cả tính chất ái tình của Xuân Diệu, cảm xúc vũ trụ của Huy Cận, cảm giác nhục thể của Bích Khê và tinh thần điên loạn của Chế Lan Viên.

Sự giải phóng ở đây chỉ làm giàu cho thi ca. Đúng! Bởi đây là sự giải phóng cái “Tôi”. Và bởi cái “Tôi” này là của một lớp người trẻ. Tuổi trẻ, và tài năng, và nhiệt huyết, và sự được giải phóng, được cởi mở, bấy nhiêu cái đó đã thúc đẩy Thơ Mới đi tới trên những đợt sóng với các ngọn trào Thế Lữ, Xuân Diệu, Hàn Mặc Tử. Chính sự nở rộ này đã làm nên mùa chín tới rất nhanh, khiến cho người thơ nhìn người thơ thấy ngay được cái cốt lõi, cái tương lai. Tập Thơ thơ xuất bản năm 1938, Thế Lữ viết tựa đã dám nói chắc chắn: “Và từ đây chúng ta đã có Xuân Diệu. Loài người hãy hiểu con người ấy!”. Trước đó một năm, chàng thi sĩ mang họ dân Chàm 16 tuổi tự mình viết tựa Điêu tàn cho mình rất ngông và rất thực: “Thi sĩ không phải là Người. Nó là Người Mơ, Người Say, Người Điên. Nó là Tiên, là Ma, là Quỷ, là Tinh, là Yêu. Nó thoát Hiện Tại. Nó xối trộn Dĩ Vãng. Nó ôm trùm Tương Lai. Người ta không hiểu được nó vì nó nói những cái vô nghĩa, tuy rằng những cái vô nghĩa hợp lý”.

Hàn Mặc Tử đề tựa Thơ điên (1939) của mình: “Tôi đã sống mãnh liệt và đầy đủ. Sống bằng tim, bằng phổi, bằng máu, bằng lệ, bằng hồn. Tôi đã phát triển hết cả cảm giác của tình yêu. Tôi đã vui, buồn, giận, hờn đến gần đứt sự sống. Thôi mời cô cứ vào. Ánh sáng lạ trong thơ tôi sẽ làm cho gò má cô đỏ gấc. Và một khi cô đã vào là cô sẽ lạc, vì vườn thơ tôi rộng rinh không bờ bến. Càng đi xa càng ớn lạnh”. Huy Cận viết trong Kinh cầu tự (1942): “Ta nhớ lại những bà mẹ may áo cho con, trừ hai dài rộng: “lớn lên thì vừa”. Kẻ đọc ta ơi! (ta không muốn gọi người là người bạn đọc) đừng phiền lòng nhé! Ta đang may áo trừ hao cho người đây!”. Quả là sự điên cuồng của những người dũng cảm hát ca lên. Và may sao sự điên cuồng đó đã có cơ hội thoát ra để thành thơ. Thơ Mới là một thế hệ thi ca thành thực, một thời đại thi ca tự do.
Điều kiện đủ này đang từng bước được xác lập. Và thế tất rồi phải được thực hiện. Tự do ngôn luận, tự do sáng tạo là một quyền con người, và đối với văn nghệ sĩ quyền đó càng thiêng liêng, thiết thân. Nhưng điều kiện cần là ở chính tự người viết. Nhà văn phải luôn tự làm mới mình. Bổn phận nhà văn là phải viết hay.

4. “Trong nghề văn khiêm tốn là một đức tính thừa!” - quan niệm này của Gabriel García Marquez, nhà văn Columbia giải Nobel 1982, đáng là châm ngôn của mọi người cầm bút. Trong quá trình học và đọc, luôn luôn có những bậc thầy cho ta ngưỡng mộ, kính phục, yêu mến. Nhưng khi bắt tay vào viết, ta phải luôn nghĩ ta là nhất, là hơn hết cả, là sẽ vượt lên trên các giá trị đã có, tạo lập những giá trị mới chưa từng có. Câu thơ Xuân Diệu nói cái cô đơn cá nhân có thể vận cho tâm thế sáng tạo: “Ta là Một, là Riêng, là Thứ Nhất/ Không có chi bè bạn nổi cùng ta”. Nghĩ được thế rồi, được nghĩ thế rồi, ta mới dám mạnh bạo phá tung mọi luật lệ văn chương ràng buộc níu trói chân tay, mới dám mở bung đầu óc tâm trí tìm đến những miền xa tưởng tượng, mới dám làm mới cho từng lời văn câu thơ. Ai bảo ta kiêu căng, mặc! Ai bảo ta hỗn hào, mặc! Ai bảo ta điên rồ, mặc! Đã rằng khiêm tốn nên gác ra ngoài khi một mình đối diện trang giấy, ta chỉ biết có ta trong cơn xúc cảm sáng tạo mà thôi. Trang giấy “pháp trường trắng” (chữ dùng của Nguyễn Tuân) không cho phép ta hèn nhát chỉ nghĩ là mình cố viết sao cho bằng được cái đỉnh này, cái ngọn kia. Phải dũng cảm ở đây. Sự điên rồ của những người dũng cảm ở đây mới có thể tạo ra kiệt tác văn chương. Cái làng Macondo đã nảy nòi dưới ngòi bút G. G. Marquez chính là khi ngồi vào bàn viết ông đã xác quyết không chịu khiêm tốn với ai cả. Một trăm năm cô đơn, người mọc đuôi lợn, cả một cái làng bị thoái hóa..., đó là cái riêng, cái duy nhất của ông nhà văn Columbia này, trước ông văn học thế giới chưa có hình tượng nào như thế, nhờ ông Columbia trở thành một địa chỉ đỏ trên bản đồ văn học thế giới. Tôi lại muốn nhắc đến ở đây một câu nói nữa, lần này là của Dostoevsky: “Thưa quý vị, suốt đời tôi chỉ làm mỗi một việc, đó là đẩy tới tận cùng cái mà các vị chỉ dám làm một nửa”.

Ba gương mặt sáng giá nhất của văn học đổi mới nước ta, Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài, Bảo Ninh, là ba nhà văn chẳng hề “khiêm tốn” chút nào, hiểu theo nghĩa câu nói ở trên của Marquez. Họ viết như đường văn trước họ chưa có người đi. Họ viết, bất chấp những ràng buộc thành văn và không thành văn trên trang viết và ngoài trang viết. Họ viết, theo sự thôi thúc của văn chương, và theo chính họ. Chính vậy nên họ đã có được những tác phẩm hay, mang tính đột biến và cách tân mạnh mẽ. Và cũng chính vậy, họ là ba nhà văn bị hứng chịu nhiều “đòn roi” nhất của phê bình, của dư luận, cả trong và ngoài văn học. Nhưng họ đã đứng lại được trong văn học bằng tên tuổi mình. Cái hay, nhất là cái hay lối mới, thường gây dư luận, và thường là dư luận trái chiều. Truyện “Cánh đồng bất tận” (Nguyễn Thị Ngọc Tư) mọi người đồng thanh khen. Truyện “Bóng đè” mọi người khen chê trái ngược nhau. Nhưng đó đều là hai truyện hay.

Muốn viết hay, vậy là, nhà văn còn cần phải có sự dũng cảm nữa. Dũng cảm để tìm đường mở lối. Dũng cảm để tự tin vào mình. Dũng cảm để chịu đựng những sự chưa hiểu, hiểu lầm, hiểu sai, cả những sự ác ý của người đời, khi tác phẩm mình xuất hiện. Bài học của Walt Whitman với tập thơ “Lá cỏ” đáng được đưa ra liên hệ ở đây. Năm 1855 khi tập Lá cỏ ra đời, một nhà phê bình ở thành phố Boston đã gọi ông là “một thằng rồ đáng đánh roi vì tội vi phạm thuần phong mỹ tục”. Ezra Pound nổi tiếng đương thời cũng không khá hơn khi nói đến Whiman: “Ông ta thật là tởm. Ông ta là một viên thuốc cực kỳ buồn nôn”. Các dịch giả Lá cỏ ra tiếng Việt (Vũ Cận và Đào Xuân Quý) cho biết số phận nguyên tác: “Tập thơ in ra một nghìn bản, chỉ tiêu thụ được non ba mươi bản. Mấy trăm bản gửi biếu hầu như chịu chung một số phận: hầu hết bị trả lại, nhiều khi kèm theo những lời xỉ vả thậm tệ đối với tác giả và tác phẩm. Có người trước khi gửi trả còn cẩn thận xé đôi cuốn sách để tác giả không thể còn hiểu lầm thái độ của mình”. Nếu W. Whitman không tự tin khi tung ra tập thơ và không dũng cảm chịu đựng những lời chỉ trích thì ông đã không thành một tác gia lớn của văn học Mỹ.

Tôi đã nêu ra thí dụ này khi viết về thơ Vi Thùy Linh, không phải để so sánh tầm vóc hai tác giả, mà tôi chỉ liên hệ thái độ phản ứng đối với một loại thơ, ở Mỹ giữa thế kỷ XIX, và ở Việt đầu thế kỷ XXI. Một số người phản ứng thơ Vi Thùy Linh viết hẳn lên báo là không dám cầm tập thơ về nhà cho con gái xem, và khuyên sinh viên không nên đọc, vì cho đó là dâm, là tục. Rất may nàng Vi (như cách cô nhà thơ này thường gọi mình trong thơ) đã không gục ngã, cô vẫn tiếp tục viết, và mới đây nhất đã trang trọng ra mắt tập thơ thứ ba của mình có tên gọi “Đồng tử” tại Trung tâm văn hóa Pháp (LEspace) ở Hà Nội. Bìa bốn tập thơ đề hẳn câu thơ trong một bài thơ của một phần thơ trong tập: “Những cặp chân khóa chặt nhau khước từ chân lý”, mặc dù biên tập đã yêu cầu đổi “chân lý” thành “bóng tối”.

Dũng cảm để biết chấp nhận những cái khác mình, ở ngoài mình. Tôi không phản đối một nhóm thơ như nhóm Mở Miệng (Sài Gòn) ở thể nghiệm làm một lối thơ mới của họ. Họ có một quan niệm thơ khác và họ thực hành làm thơ theo quan niệm đó của mình. Hãy cứ để họ xuất hiện, rồi thời gian và công chúng sẽ là người phán định thơ họ hay hay dở. Thời gian thì cứ trôi và công chúng thì cũng trôi theo dòng thời gian và biến đổi cơ mà. Trong sáng tạo văn chương nghệ thuật, đừng nhân danh ai, cái gì, để cấm đoán, ngăn chặn ai, cái gì; đừng nhân danh giá trị một thời để phê phán, phủ nhận cái đang làm nên giá trị của một thời khác. Đọc tập thơ mới “Khoan cắt bê tông” của nhóm Mở Miệng và bạn bè sẽ thấy họ thực sự có cái thơ mới. Một quy luật của sự phát triển văn học là sự chuyển dịch cái cũ từ trung tâm ra ngoại biên và cái mới từ ngoại biên vào trung tâm. Ta hãy chờ xem.

Dũng cảm còn là để biết dám thay đổi mình. Trong nghệ thuật đứng lại là đã thụt lùi. Nhà văn ta, nói xin lỗi, hình như ít băn khoăn day dứt trước những cái mới của văn chương, nhất là văn chương thế giới. Đọc tác phẩm của các nhà văn trong nước có cảm tưởng như văn học bên ngoài chẳng có gì thay đổi, chẳng có gì mới mẻ. Ấy vậy mà giới dịch thuật văn học nước nhà vẫn đang cần mẫn chuyển tải sang Việt ngữ những tác phẩm có giá trị nghệ thuật của các nhà văn thế giới. Đọc họ đi, và nếu thấy họ làm cho mình phải chùn tay trước trang viết, thấy không thể viết như trước được nữa, đó đã là một yếu tố có thể đưa đến tác phẩm hay. Một cuốn tiểu thuyết như “Từ điển Khazar” của Milorad Pavic, nhà văn và tác phẩm được coi là đầu tiên của thế kỷ XXI hiểu với nghĩa là cách tân hậu hiện đại, đọc sẽ mệt vì người đọc buộc phải làm quen với lối đọc phi tuyến tính, nhưng đọc sẽ bổ ích cho cách viết. Gần đây cuốn tiểu thuyết “Khải huyền muộn” của Nguyễn Việt Hà cũng cho thấy sự tìm tòi lối viết khác lạ. Truyện trong truyện đã không còn là thủ pháp mới nữa. Nhưng truyện viết về cái truyện viết ra thì là một cố gắng đáng khích lệ của nhà văn này. Có thể nói nội dung của cuốn tiểu thuyết đó chính là ở cách viết của nó. Đó là viết nội dung, không phải kể nội dung.

5. Điều kiện cần và đủ để có tác phẩm hay, tóm lại, là hãy hết mình. Nhà văn hết mình với trang viết của mình. Cơ chế xuất bản hết mình với văn bản của nhà văn. Khi đó, mượn lời K. Marx, không phải tất cả người viết văn đều là Raphael cả, nhưng những ai có mầm mống Raphael trong mình đều được tự do phát lộ. Và những tác phẩm hay sẽ từ đó mà ra.
 Hà Nội, đầu đông 2005
 P.X.N

(nguồn: TCSH số 215 - 01 - 2007)

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGUYỄN TRỌNG TẠO...Một câu ngạn ngữ Pháp nói rằng: “Khen đúng là bạn, chê đúng là thầy”. Câu ngạn ngữ này đúng trong mọi trường hợp, và riêng với văn học, Hoài Thanh còn vận thêm rằng: “Khen đúng là bạn của nhà văn, chê đúng là thầy của nhà văn”...

  • BẢO CHI                 (lược thuật)Từ chiều 13 đến chiều 15-8-2003, Hội nghị Lý luận – Phê bình văn học (LL-PBVH) toàn quốc do Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức đã diễn ra tại khu nghỉ mát Tam Đảo có độ cao 1.000 mét và nhiệt độ lý tưởng 23oc. Đây là hội nghị nhìn lại công tác LL-PBVH 28 năm qua kể từ ngày đất nước thống nhất và sau 54 năm Hội nghị tranh luận Văn nghệ tại Việt Bắc (1949). Gần 200 nhà LL-PB, nhà văn, nhà thơ, nhà báo và khách mời họp mặt ở đây đã làm nóng lên chút đỉnh không khí ôn hoà của xứ lạnh triền miên...

  • ĐỖ LAI THÚY                Văn là người                                  (Buffon)Cuốn sách thứ hai của phê bình văn học Việt Nam, sau Phê bình và cảo luận (1933) của Thiếu Sơn, thuộc về Trần Thanh Mại (1911 - 1965): Trông dòng sông Vị (1936). Và, mặc dù đứng thứ hai, nhưng cuốn sách lại mở đầu cho một phương pháp phê bình văn học mới: phê bình tiểu sử học.

  • ĐẶNG TIẾNThuật ngữ Thi Học dùng ở đây để biểu đạt những kiến thức, suy nghĩ về Thơ, qua nhiều dạng thức và trong quá trình của nó. Chữ Pháp là Poétique, hiểu theo nghĩa hẹp và cổ điển, áp dụng chủ yếu vào văn vần. Dùng theo nghĩa rộng và hiện đại, theo quan điểm của Valéry, được Jakobson phát triển về sau, từ Poétique được dịch là Thi Pháp, chỉ chức năng thẩm mỹ của ngôn từ, và nới rộng ra những hệ thống ký hiệu khác, là lý thuyết về tính nghệ thuật nói chung. Thi Học, giới hạn trong phạm vi thi ca, là một bộ phận nhỏ của Thi Pháp.

  • TRẦN CAO SƠNTriều Nguyễn tồn tại gần 150 năm, kể từ khi Nguyễn Ánh lên ngôi hoàng đế với niên hiệu Gia Long - năm1802, tạo dựng một đế chế tập quyền trên toàn bộ lãnh thổ mà trước đó chưa hề có. Trải qua một thế kỷ rưỡi tồn tại, vinh hoa và tủi nhục, Triều đại Nguyễn là một thực thể cấu thành trong lịch sử Đại Việt. Những cái do triều đình Nhà Nguyễn mang lại cũng rất có ý nghĩa, đó là chấm dứt cuộc nội chiến, tranh giành quyền lực, xương trắng máu đào liên miên mấy thế kỷ, kiến tạo bộ máy quản lý hành chính trung ương tập quyền thống nhất mà Quang Trung - Nguyễn Huệ đã dày công vun đắp gây dựng trước đó. Dân tộc đã phải trải qua những năm tháng bi hùng với nhiều điều nuối tiếc, đáng bàn đáng nói ngay ở chính hôm nay. Song lịch sử là lịch sử, đó là một hiện thực khách quan.

  • TRẦN HUYỀN SÂMNếu nghệ thuật là một sự ngạc nhiên thì chính tiểu thuyết Thập giá giữa rừng sâu là sự minh định rõ nhất cho điều này. Tôi bàng hoàng nhận ra rằng, luận thuyết: con người cao quý và có tình hơn động vật đã không hoàn toàn đúng như lâu nay chúng ta vẫn tin tưởng một cách hồn nhiên. Con người có nguy cơ sa xuống hàng thú vật, thậm chí không bằng thú vật, nếu không ý thức được giá trị đích thực của Con Người với cái tên viết hoa của nó. Phải chăng, đây chính là lời nói tối hậu với con người, về con người của tác phẩm này?

  • HOÀNG NGỌC HIẾN           ...Từ những nguồn khác nhau: đạo đức học, mỹ học, triết học xã hội-chính trị, triết học xã hội-văn hoá... cảm hứng triết luận trong nghiên cứu, phê bình văn học là nỗ lực vượt lên trên những thành kiến và định kiến hẹp hòi trong sinh hoạt cũng như trong học thuật. Những thành kiến, định kiến này có khi lại được xem như những điều hiển nhiên. Mà đã là “hiển nhiên” thì khỏi phải bàn. Đây cũng là một thói quen khá phổ biến trong nhân loại. Cảm hứng triết luận trong nghiên cứu, phê bình có khi bắt nguồn từ suy nghĩ về chính những điều “hiển nhiên” như vậy...

  • THÁI DOÃN HIỂUVào đời, Lưu Quang Vũ bắt đầu làm thơ, viết truyện, rồi dừng lại nơi kịch. Ở thể loại nào, tài năng của Vũ cũng in dấu ấn đậm đà làm cho bạn đọc cả nước đi từ ngạc nhiên đến sửng sốt. Thơ Lưu Quang Vũ một thời được lớp trẻ say sưa chép và thuộc. Kịch Lưu Quang Vũ một thời gần như thống trị sân khấu cả nước.

  • TRẦN THANH ĐẠMTrong lịch sử nước ta cũng như nhiều nước khác, thời cổ - trung đại cũng như thời cận - hiện đại, mỗi khi một quốc gia, dân tộc bị xâm lược và chinh phục bởi các thế lực bên ngoài thì trong nước bao giờ cũng phát sinh hai lực lượng: một lực lượng tìm cách kháng cự lại nạn ngoại xâm và một lực lượng khác đứng ra hợp tác với kẻ ngoại xâm.

  • ĐỖ LAI THUÝLTS: Trong số tháng 5-2003, Sông Hương đã dành một số trang để anh em văn nghệ sĩ Huế "tưởng niệm" nhà văn Nguyễn Đình Thi vừa qua đời. Song, đấy chỉ mới là việc nghĩa.Là một cây đại thụ của nền văn nghệ cách mạng Việt Nam, Nguyễn Đình Thi toả bóng trên nhiều lĩnh vực nghệ thuật. Bằng chứng qua các bài viết về ông sau đây, Sông Hương xin trân trọng dành thêm trang để giới thiệu sâu hơn, có hệ thống hơn về Nguyễn Đình Thi cùng bạn đọc.

  • ĐẶNG TIẾN…Nguyễn Đình Thi quê quán Hà Nội, nhưng sinh tại Luang Prabang, Lào, ngày 20/12/1924. Từ 1931 theo gia đình về nước, học tại Hải Phòng, Hà Nội. Năm 1941 tham gia Thanh Niên cưú quốc, 1943 tham gia Văn hóa cứu quốc, bị Pháp bắt nhiều lần. Năm 1945, tham dự Quốc Dân Đại hội Tân Trào, vào Ủy ban Giải phóng Dân tộc. Năm 1946, là đại biểu Quốc hội trẻ nhất, làm Ủy viên Thường trực Quốc hội, khóa I…

  • HỒ THẾ HÀ          Hai mươi lăm năm thơ Huế (1975 - 2000) là một chặng đường không dài, nhưng nó diễn ra trong một bối cảnh lịch sử - thi ca đầy phức tạp. Cuộc sống hàng ngày đặt ra cho thể loại những yêu cầu mới, mà thơ ca phải làm tròn sứ mệnh cao cả với tư cách là một hoạt động nhận thức nhạy bén nhất. Những khó khăn là chuyện đương nhiên, nhưng cũng phải thấy rằng bí quyết sinh tồn của chính thể loại cũng không chịu bó tay. Hơn nữa, đã đặt ra yêu cầu thì chính cuộc sống cũng đã chuẩn bị những tiền đề để thực hiện. Nếu không, mối quan hệ này bị phá vỡ.

  • JAMES REEVESGần như điều mà tôi hoặc bất kỳ nhà văn nào khác có thể nói về một bài thơ đều giống nhau khi nêu ra ấn tượng về điều gì đấy được in trên giấy. Tôi muốn nhấn mạnh rằng đây không phải là toàn bộ sự thật. Việc in trên giấy thực ra là một bài thơ gián tiếp. Sẽ dễ dàng thấy điều này nếu chúng ta đang nói về hội hoạ hoặc điêu khắc.

  • NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆP...Nguyễn Huy Thiệp không phải là người duy nhất đổi mới phương thức trần thuật. Trước ông đã có Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng... tích cực mở đường. Nhưng phải đến Nguyễn Huy Thiệp thì sự khai phóng về tư tưởng nghệ thuật mới được thể hiện một cách đậm nét. Tất cả được Nguyễn Huy Thiệp kiến tạo qua một trò chơi đầy tính bất ngờ. Giống như người nghệ sĩ ba lê tài năng, Nguyễn Huy Thiệp trình diễn một thế giới đa sắc trên đầu những đầu mũi ngón chân. Những ngón chân ấy bám trụ vào hiện thực một cách tinh diệu, xoay chuyển một cách nhịp nhàng với những vòng quay, những vũ điệu ngôn từ...

  • PHAN NGỌC THUTrong nền văn học Việt Nam thế kỷ XX, Xuân Diệu (1916-1985) là một trong những nhà thơ nổi tiếng nhất, đồng thời cũng là nhà phê bình văn học kiệt xuất. Từ những bài tranh luận văn học sôi nổi thời Thơ Mới (1932-1945) đến Tiếng thơ (1951), Những bước đường tư tưởng của tôi (1958); từ Phê bình giới thiệu thơ (1960) đến Trò chuyện với các bạn làm thơ trẻ (1961), Dao có mài mới sắc (1963), Lượng thông tin và những kỹ sư tâm hồn ấy (1978), Các nhà thơ cổ điển Việt Nam, tập I (1981), tập II (1982) và Công việc làm thơ (1984)... "chỉ tính riêng các tác phẩm lý luận phê bình, đã có thể gọi Xuân Diệu là một đại gia"(1)

  • BÙI QUANG TUYẾNThơ mới là một hiện tượng nổi bật của văn học Việt Nam nói chung và thơ ca nói riêng trong thế kỷ XX. Nó vừa ra đời đã nhanh chóng khẳng định vị trí xứng đáng trong nền văn học dân tộc với các "hoàng tử thơ": Thế Lữ, Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử v..v...

  • HÀ KHÁNH CHINgày 20 - 3 - 2003, siêu cường lớn nhất mọi thời đại là đế quốc Hoa Kỳ đã mở đầu cuộc chiến tranh kỳ quái nhất trong lịch sử bằng cách tấn công Iraq sau khi đã bắt quốc gia này phải tự phá huỷ vũ khí tự vệ của chính họ. Đó là bài học chưa hề thấy về chút hy vọng cuối cùng mà lương tri nhân loại có thể đòi hỏi. Để có thể hiểu rõ hơn những gì đang xảy ra hôm nay - có lẽ cũng rất cần ôn lại một trong những vấn đề lớn nhất mà loài người có thể nghĩ tới: cuộc chiến tranh Việt Nam đã kết thúc cách đây gần 30 năm.

  • HOÀNG ĐĂNG KHOA Văn học Việt từ sau 1975, nhất là từ thời kỳ đổi mới, là một quá trình văn học rất phong phú, đa dạng và không ít phức tạp, lại còn đang tiếp diễn. Cuốn sách Văn học Việt Nam sau 1975 - Những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy ra đời đáp ứng nhu cầu mang tính thời sự: nhu cầu nhìn nhận, đánh giá một cách khách quan, toàn diện về tiến trình văn học ba mươi năm qua, chuẩn bị cho sự ra đời của những công trình văn học sử và những chuyên khảo về giai đoạn văn học này.

  • NGUYỄN QUANG HÀTrong đời có những bài thơ người ta quên, mà chỉ nhớ một câu nằm lòng. Bởi đó là những câu thơ thực sự, những câu thơ thi sĩ. Từ xưa đến nay, đã có rất nhiều định nghĩa về thơ: Thơ là tiếng hát của trái tim; Thơ là hạt muối kết tinh của tình cảm; Thơ là phút giây rung động của tâm hồn... Nói chung, những định nghĩa ấy cho ta hiểu rằng ở đâu có được sự rung động của trái tim thì ở đó có thơ.

  • ĐỖ LAI THUÝPhê bình văn học Việt Nam, sau sự khởi nguồn của Thiếu Sơn với Phê bình và Cảo luận (1933) chia thành hai ngả. Một xuất phát từ Phê bình để trở thành lối phê bình chủ quan ấn tượng với Hoài Thanh và Thi nhân Việt Nam (1942). Lối kia bắt nguồn từ Cảo luận tạo nên phê bình khách quan khoa học với Vũ Ngọc Phan của Nhà văn hiện đại (1942), Trần Thanh Mai của Hàn Mặc Tử (1941), Trương Tửu của Nguyễn Du và Truyện Kiều (1942), Tâm lý và tư tưởng Nguyễn Công Trứ (1945). Sự phân chia này, dĩ nhiên, không phải là hành chính, mà là khoa học, tức sự phân giới dựa trên những yếu tố chủ đạo, nên không phải là không thể vượt biên. Bởi, mọi biên giới đều mơ hồ hơn ta tưởng, nhất là ở khoa học văn chương.